Từ ngay ông mất bố mẹ em có nhiệm vụ chăm sóc vườn .Khu vườn
không rộng lắm nhưng được trồng nhiều loại cây khác nhau . Theo em có lẽ khu
vườn đẹp nhất vào buổi sáng.
Vì em phải bận học nên ko theo bố mẹ vào vườn được . Nhưng hôm nay là ngày chủ nhật nên em cùng bố mẹ ra thăm vườn và phụ giúp bố mẹ làm vườn. Người mở cổng vườn đầu tiên là em . Sáng hôm đó ko khí trong lành mát mẻ, cảnh vật còn chìm trong màn sương đêm,bầu trời trong xanh cao vời vợi . Pha lẫn là những đám mây trắng đang trôi bồng bềnh . Trên những chiếc lá còn động lại những hạt sương sớm nó lấp lánh như kim cương . Những hàng cây đang đung đưa theo gió như nói chuyện với nhau . Những chú chim ríu rit líu lo gọi bầy . Tất cả làm nên một bức tranh thiên nhiên đẹp sinh động .
Mới bước vào vườn em đã nghe tiếng sủa của chú chó vệnh lông vàng đang ngoe ngoẩy cái đuôi hít hít cái mũi . Chắc nó mừng vì sau một tuần gặp lại cô chủ xa cách . Bố mẹ trồng nhiều loại cây ăn quả khác nhau nào là : xoài , ổi , sầu riêng . Cây sầu riêng la loai cây cao nhất không biết nó được trồng từ bao giờ mà nó cao đến thế . Hoa sầu riêng mọc từng chùm nó có mùi thơm ngào ngạt khắp cả vườn. Cây sầu riêng đã vào mùa những quả như những chú nhím treo lủng lẳng trên cành . Nó lớn dần theo từng ngày . Dọc theo hàng ranh là những hàng cây mít . Thân nó sù xì to cao khỏe như những chàng sĩ canh giữ khu vườn . Mít đã ra quả non . Nhìn từ xa những quả mít như những chú heo con treo lủng lẳng trên cành rất dễ thương . Ở cuối vườn bố mẹ trồng cây măng cụt . Thân măng cụt không to lắm nhưng cành lá lại sum xuê, những tán lá của nó lớn to khép kín vào nhau còn ủ đầy sương . Quả của nó khi chưa chín thì nó phát lên một màu xanh non . Nhưng khi chín , quả tròn trịa khoác lên màu tím . Cầm trên tay , ta có thể biết được số múi của nó . Xung quanh nhà là cây đu đủ thân cây không to lắm , nhưng quả sum xuê . Quả đu đủ dài màu vàng nghệ treo lủng lẳng trên cành . Em thích nhất là ăn đu đủ .
Mặt trời càng lên cao xua đi màn sương đêm khu vườn càng nhộn nhịp hơn những chú sóc lông vàng mát dịu với những sọc đen dài trên lưng đang chuyền cành từ cành này sang cành nọ như đang tìm trái mít chín cây thơm lừng . Nó tranh dành một trái mít chín nó kêu chíp chíp khoái chí . Vì có một bữa sáng ngon lành . Chị chào mào hót líu lo như đón một buổi sáng bình minh . Tất cả đã tạo nên một âm thanh " Lao Xao " của khu vườn nhà em .
Khu vườn trong nắng mai của nhà em thật đẹp để lại cho em nhiều ấn tượng không bao giờ phai . Em sẽ chăm sóc khu vườn để nó luôn luôn tươi đẹp
Vì em phải bận học nên ko theo bố mẹ vào vườn được . Nhưng hôm nay là ngày chủ nhật nên em cùng bố mẹ ra thăm vườn và phụ giúp bố mẹ làm vườn. Người mở cổng vườn đầu tiên là em . Sáng hôm đó ko khí trong lành mát mẻ, cảnh vật còn chìm trong màn sương đêm,bầu trời trong xanh cao vời vợi . Pha lẫn là những đám mây trắng đang trôi bồng bềnh . Trên những chiếc lá còn động lại những hạt sương sớm nó lấp lánh như kim cương . Những hàng cây đang đung đưa theo gió như nói chuyện với nhau . Những chú chim ríu rit líu lo gọi bầy . Tất cả làm nên một bức tranh thiên nhiên đẹp sinh động .
Mới bước vào vườn em đã nghe tiếng sủa của chú chó vệnh lông vàng đang ngoe ngoẩy cái đuôi hít hít cái mũi . Chắc nó mừng vì sau một tuần gặp lại cô chủ xa cách . Bố mẹ trồng nhiều loại cây ăn quả khác nhau nào là : xoài , ổi , sầu riêng . Cây sầu riêng la loai cây cao nhất không biết nó được trồng từ bao giờ mà nó cao đến thế . Hoa sầu riêng mọc từng chùm nó có mùi thơm ngào ngạt khắp cả vườn. Cây sầu riêng đã vào mùa những quả như những chú nhím treo lủng lẳng trên cành . Nó lớn dần theo từng ngày . Dọc theo hàng ranh là những hàng cây mít . Thân nó sù xì to cao khỏe như những chàng sĩ canh giữ khu vườn . Mít đã ra quả non . Nhìn từ xa những quả mít như những chú heo con treo lủng lẳng trên cành rất dễ thương . Ở cuối vườn bố mẹ trồng cây măng cụt . Thân măng cụt không to lắm nhưng cành lá lại sum xuê, những tán lá của nó lớn to khép kín vào nhau còn ủ đầy sương . Quả của nó khi chưa chín thì nó phát lên một màu xanh non . Nhưng khi chín , quả tròn trịa khoác lên màu tím . Cầm trên tay , ta có thể biết được số múi của nó . Xung quanh nhà là cây đu đủ thân cây không to lắm , nhưng quả sum xuê . Quả đu đủ dài màu vàng nghệ treo lủng lẳng trên cành . Em thích nhất là ăn đu đủ .
Mặt trời càng lên cao xua đi màn sương đêm khu vườn càng nhộn nhịp hơn những chú sóc lông vàng mát dịu với những sọc đen dài trên lưng đang chuyền cành từ cành này sang cành nọ như đang tìm trái mít chín cây thơm lừng . Nó tranh dành một trái mít chín nó kêu chíp chíp khoái chí . Vì có một bữa sáng ngon lành . Chị chào mào hót líu lo như đón một buổi sáng bình minh . Tất cả đã tạo nên một âm thanh " Lao Xao " của khu vườn nhà em .
Khu vườn trong nắng mai của nhà em thật đẹp để lại cho em nhiều ấn tượng không bao giờ phai . Em sẽ chăm sóc khu vườn để nó luôn luôn tươi đẹp
Mặt
trời tiết cuối đông nhọc nhằn chọc thủng màn sương sớm, từ từ nhô lên khỏi rặng
tre của làng xa. Bầu trời dần tươi sáng, cảnh vật như bừng tỉnh để đón chào
ngày mới, đón cháo một mùa xuân mới đang sắp sửa tới gần.
Từ các xóm làng, từ các mái nhà còn sương lam ôm ấp, mọi
người đổ ra đường, người gồng gánh, kẻ bưng thúng, xách giỏ, có người đẩy xe
chở hàng. Họ lần lược dồn lên con đường lớn. Vai kĩu kịt, tay vung vẫy, chân đi
thoăn thoắt...Tất cả đều tiến về chợ huyện.
Phiên chợ Tết thật đông. Tiếng lợn con en éc, tiếng gà gấy oát...oát, tiếng vịt cạc...cạc, tiếng người nói bô bô trong chợ. Các gian hàng nhanh chóng được bày diện. Nào áo, quần, giày dép nhiều loại, bánh mứt đủ màu, rau quả tươi roi rói, kẻ muôn người bán lon xon, chật ních. Trước cổng chợ, những bức tranh lợn, gà heo, chuột ếch,... được giải treo tiếp nối nhau trông thật đẹp mắt. Rồi bức tranh của làng quê cũng hiện lên từ xa: Biển lúa vàng óng ả, chú bé ngồi ngất nghểu trên lưng trâu ung dung thổi sáo, đàn cò trắng nhởn nhơ trên bầu trời xanh thẳm, chim én lượn vòng trên xóm chợ... Một bức tranh đầy quyến rũ, ấm áp lạ thường.
Sương tan, nắng ấm rải nhẹ trên hoa lá, chợ đông nghẹt, đủ thứ màu sắc trà trộn, đủ thứ âm thanh chen lẫn. Không ai nói to cũng không ai nói nhiều. Nhưng lường phát âm của vô số người đã làm phiên chợ âm ầm giữa miền quê yên tĩnh và vô cùng vui tươi, trù phú. Sắc xuân rón rén đến gần, xuân phảng phất trong từng nụ hoa đang chúm chím.
Mặt trời đã ngả về phía tây, chợ vẫn tưng bừng hàng hóa vẫn tấp nập các quầy. Từ các nơi, các loài hoa nườm nượp đưa về. Nào là hoa mai, hoa đào, hoa cẩm chướng, hồng nhung... Chúng rạng rỡ như cô thiếu nữ, chúng lay động dưới ánh xuân như tuổi đôi mươi. Đây đó, một vài cụ đồ nho hí hoái viết thơ xuân, viết những câu đối đỏ trên bức sáo, mọi người chen nhau đọc. Có người mãi ngắm tranh, ngắm hoa, đọc thơ mà quên cả thời gian vận hành, buổi chiều hửng ấm đã nhạt nhòa ngã xuống.
Cho tới lúc trời tối, chuông chùa văng vẳng ngân vang, mọi người tạm ngưng phiên chợ. Họ lũ lượt trở ra về. Khung cảnh tưng bừng nơi chợ Tết bắt đầu mờ dần rồi mất hẳn, không còn trông thấy một cái gì nữa bởi sương đêm. Phảng phất trong không khí có mùi hương quen thuộc, mùi lúa mới, mùi trái ngọt, hoa thơm... Tất cả đều đặc biệt, đáng yêu, đáng quí bởi nó là mùi vị của một làng quê Việt Nam trù phú, thấm đượm nghĩa tình, ấm nồng hương đồng cỏ nội.
Phiên chợ Tết đã đem đến cho con người bao điều thú vị. Ai cũng hối hả, khẩn trương với công việc của mình. Họ rạo rực đón xuân trong niền vui lao động. Tôi cũng hồi hộp đón xuân và lo nghĩ đến nhiệm vụ của chính mình.
Phiên chợ Tết thật đông. Tiếng lợn con en éc, tiếng gà gấy oát...oát, tiếng vịt cạc...cạc, tiếng người nói bô bô trong chợ. Các gian hàng nhanh chóng được bày diện. Nào áo, quần, giày dép nhiều loại, bánh mứt đủ màu, rau quả tươi roi rói, kẻ muôn người bán lon xon, chật ních. Trước cổng chợ, những bức tranh lợn, gà heo, chuột ếch,... được giải treo tiếp nối nhau trông thật đẹp mắt. Rồi bức tranh của làng quê cũng hiện lên từ xa: Biển lúa vàng óng ả, chú bé ngồi ngất nghểu trên lưng trâu ung dung thổi sáo, đàn cò trắng nhởn nhơ trên bầu trời xanh thẳm, chim én lượn vòng trên xóm chợ... Một bức tranh đầy quyến rũ, ấm áp lạ thường.
Sương tan, nắng ấm rải nhẹ trên hoa lá, chợ đông nghẹt, đủ thứ màu sắc trà trộn, đủ thứ âm thanh chen lẫn. Không ai nói to cũng không ai nói nhiều. Nhưng lường phát âm của vô số người đã làm phiên chợ âm ầm giữa miền quê yên tĩnh và vô cùng vui tươi, trù phú. Sắc xuân rón rén đến gần, xuân phảng phất trong từng nụ hoa đang chúm chím.
Mặt trời đã ngả về phía tây, chợ vẫn tưng bừng hàng hóa vẫn tấp nập các quầy. Từ các nơi, các loài hoa nườm nượp đưa về. Nào là hoa mai, hoa đào, hoa cẩm chướng, hồng nhung... Chúng rạng rỡ như cô thiếu nữ, chúng lay động dưới ánh xuân như tuổi đôi mươi. Đây đó, một vài cụ đồ nho hí hoái viết thơ xuân, viết những câu đối đỏ trên bức sáo, mọi người chen nhau đọc. Có người mãi ngắm tranh, ngắm hoa, đọc thơ mà quên cả thời gian vận hành, buổi chiều hửng ấm đã nhạt nhòa ngã xuống.
Cho tới lúc trời tối, chuông chùa văng vẳng ngân vang, mọi người tạm ngưng phiên chợ. Họ lũ lượt trở ra về. Khung cảnh tưng bừng nơi chợ Tết bắt đầu mờ dần rồi mất hẳn, không còn trông thấy một cái gì nữa bởi sương đêm. Phảng phất trong không khí có mùi hương quen thuộc, mùi lúa mới, mùi trái ngọt, hoa thơm... Tất cả đều đặc biệt, đáng yêu, đáng quí bởi nó là mùi vị của một làng quê Việt Nam trù phú, thấm đượm nghĩa tình, ấm nồng hương đồng cỏ nội.
Phiên chợ Tết đã đem đến cho con người bao điều thú vị. Ai cũng hối hả, khẩn trương với công việc của mình. Họ rạo rực đón xuân trong niền vui lao động. Tôi cũng hồi hộp đón xuân và lo nghĩ đến nhiệm vụ của chính mình.
Võ
Thị Sáu, nữ anh hùng huyền thoại vùng Đất Đỏ
Cuộc đời chị Võ Thị Sáu trở thành huyền thoại, sống mãi cùng dân
tộc bởi "có những cái chết trở thành bất tử".
Võ Thị Sáu là nữ anh
hùng, sinh năm 1933 ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa.
Sinh ra và lớn lên trên miền quê giàu truyền
thống yêu nước, lại chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào, chị Sáu
đã không ngần ngại cùng các anh trai tham gia cách mạng.
Thiếu nữ ném lựu đạn diệt giặc
14 tuổi, Võ Thị Sáu
theo anh gia nhập Việt Minh, trốn lên chiến khu chống Pháp. Chị tham gia đội
công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế.
Trong khoảng thời gian này, chị Sáu tham gia
nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương, dùng lựu đạn tiêu diệt hai tên ác ôn
và làm bị thương nhiều lính Pháp.
Người con gái Đất Đỏ còn nhiều lần phát hiện
gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công
địch.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm
vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp. Biết đây là nhiệm vụ gian nan,
nguy hiểm, chị Sáu vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này.
Chị nhận lựu đạn, ém vào góc chợ gần khán đài
từ nửa đêm. Sáng hôm đó, địch lùa người dân vào sân. Khi xe của tỉnh trưởng
tới, chị tung lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh.
Hai tổ công an xung phong chốt gần đấy đồng
loạt nổ súng yểm trợ tạo áp lực giải tán cuộc mít tinh, đồng thời hỗ trợ cho
chị Sáu rút an toàn. Người của Việt Minh được bố trí trong đám đông hô to
"Việt Minh tiến công" và hướng dẫn người dân giải tán.
Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên
dương khen ngợi và được giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian, bao gồm việc tiêu diệt
tên cai tổng Tòng.
Tháng 11/1948, Võ Thị Sáu mang theo lựu đạn,
trà trộn vào đám người đi làm căn cước. Giữa buổi, chị ném lựu đạn vào nơi làm
việc của Tòng, hô to “Việt Minh tấn công” rồi kéo mấy chị em cùng chạy.
Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng
không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không dám truy
lùng Việt Minh ráo riết như trước.
Tháng 2/1950, Võ Thị Sáu tiếp tục nhận nhiệm
vụ ném lựu đạn, tiêu diệt hai chỉ điểm viên của thực dân Pháp là Cả Suốt và Cả
Đay rồi không may bị bắt.
Trong hơn một tháng bị giam tại nhà tù Đất Đỏ,
dù bị giặc tra tấn dã man, chị không khai báo. Địch phải chuyển chị về khám Chí
Hòa.
Chị Sáu tiếp tục làm liên lạc cho các đồng chí
trong khám, cùng chị em tại tù đấu tranh đòi cải thiện cuộc sống nhà tù.
Trước tinh thần đấu tranh quyết liệt của Võ
Thị Sáu, thực dân Pháp và tay sai mở phiên tòa, kết án tử hình đối với nữ chiến
sĩ trẻ. Chúng chuyển chị cùng một số người tù cách mạng ra nhà tù Côn Đảo.
Nhờ sự kiên cường, dũng cảm, trung thành, Võ
Thị Sáu được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam và công nhận là Đảng viên chính
thức ngày đêm trước khi hy sinh.
Kiên cường đến phút cuối
Trong quá trình bị
bắt, tra tấn và đến tận những giây phút cuối cùng, Võ Thị Sáu luôn chứng tỏ bản
lĩnh kiên cường, bất khuất của chiến sĩ cộng sản.
Khi mới bị bắt, địch tra tấn chị chết đi sống
lại nhưng không moi được nửa lời khai báo.
Sự kiên trung ấy một lần nữa thể hiện tại
phiên tòa đại hình khi chị Sáu (khi đó mới 17 tuổi) hiên ngang khẳng định: “Yêu
nước, chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”.
Khi nhận án tử hình, chị Sáu không hề run sợ.
Chị hô to “Đả đảo thực dân Pháp!”, “Kháng chiến nhất định thắng lợi!”.
Năm 1952, trước giờ hành hình, viên cha
đạo đề nghị làm lễ rửa rội cho chị. Song chị từ chối và nói: “Tôi không có tội.
Chỉ có kẻ sắp hành hình tôi đây mới có tội”.
Đối mặt cái chết, điều khiến người con gái Đất
Đỏ ân hận nhất là chưa diệt hết bọn thực dân và tay sai cướp nước.
Giai thoại kể rằng khi ra đến pháp trường, Võ
Thị Sáu kiên quyết không quỳ xuống, yêu cầu không bịt mắt.
“Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi
được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để
nhìn thẳng vào họng súng của các người!”, chị tuyên bố.
Nói xong, chị Sáu bắt
đầu hát Tiến quân ca. Khi lính lên đạn, chị ngừng hát, hô vang những lời cuối cùng
“Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!”.
CẢM NHẬN SÁCH
Sách, tâm sự một người bạn
Tôi là sách, sách chính là tôi đây
Cả cuộc
đời tôi làm bạn với mọi người
Tôi nắm trong tay vô vàn điều mới lạ
Nếu bạn tò mò, chẳng ngại rằng kêu ca.
Tôi biết trọn cuộc sống này xung quanh
Tạo hóa thiên nhiên rất ư là trong lành
Núi cao đồng bằng, đất liền hay biển cả
Vẻ
đẹp đất trời toát một màu xanh
Tôi
giúp bạn trau dồi vốn sáng tạo
Khoa học, kĩ thuật chẳng ngại gì lao
đao
Lắp ráp, phát minh đam mê cùng công nghiệp
Cùng chung cống hiến trọn một trái tim.
Tôi xoa dịu mọi tâm hồn chớm
nở
Lắng đọng lại suy nghĩ tưởng như mơ
Cuộc sống kia tưởng chừng là vô vọng
Cho tôi xin chút hy vọng của chờ
trông.
Tôi lưu giữ trang sử của cách mạng
Khói lửa mù, đắng lòng nhói tâm can
Bom giật,đạn rung, ăn mòn cả xương máu
Vẹn toàn độc lập, xóa mờ những thương đau.
Mọi lĩnh vực tôi được rèn dũa thông suốt
Tôi sinh ra để làm đẹp cuộc đời này
Làm bạn với người như món đồ hữu dụng
Tôi có trái tim, một trái tim biết yêu thương
Nếu bạn vui
Tôi chúc bạn vững tin trong cuộc sống
Nếu bạn khóc
Hãy quay lại mà tìm đọc đến tôi
Nếu khó khăn
Tôi chắc chắn sẽ giải đáp giúp cho bạn
Hãy tin rằng
Tôi mãi là một người bạn thủy chung.
Bài làm
Tôi rất thích đọc
sách, Vì thế, tôi thường xuyên được đọc những quyển sách hay, nhưng
tôi thích nhất quyển sách “Điểm tựa của niềm tin”.Nó để lại ấn
tượng sâu sắc nhất trong tôi và giúp tôi đứng vững hơn trong lúc tôi
đang rất cần nó.Quyển sách được viết từ ngòi bút của nhiều tác
giả cũng như là sự bế tắc của họ trong cuộc sống.Do nhà xuất bản
Tổng hợp Tp.Hồ Chí Minh thực hiện.
Bạn
không có thói quen đọc sách, đó chính một cái thiệt của bạn. Bạn
có biết không “Có những cuốn sách như là món quà tinh thần vô
giá…”Giống như ‘Điểm tựa của niềm tin”đã dành tặng món quà ấy cho
riêng một mình tôi.Trong cuộc sống ,ta sẽ gặp những khó khăn,nghiệt
ngã mà Thượng Đế muốn thử thách chúng ta. Vậy thì sao chúng ta không
giữ vững niềm tin để chống đối lại Thượng Đế. Còn đối với riêng
tôi, tôi phải gặp những phiền toái, áp lực từ việc học hành, gia
đình và bạn bè.Gánh nặng từ mọi khía cạnh của cuộc sống đè nặng
lên vai tôi cùng một lúc. Ngay trong lúc đó, tôi rất cần một người để
cảm thông, sẻ chia và giúp đỡ.Thật may mắn, tôi vô tình vào thư viện
và được đọc quyển sách này. Nó đúng là một món quà tinh thần vô
giá…Nó truyền cho tôi một nguồn động viên khá lớn. “Hạt giống tâm
hồn” chính là thông điệp mà cuốn sách này muốn nhắn gửi đến chúng
ta. Tâm hồn chính là một hạt giống. Hạt giống có thể nảy mầm ở
những nơi khắc nghiệt, vùng sỏi đá khô cằn, vùng băng giá lạnh và
cả nơi hoang mạc oi bức. Nếu như bạn muốn tâm hồn bạn là một hạt
giống thì tại sao bạn không giữ vững niềm tin để thực hiện ước
mơ,hoài bão của mình. Hãy cố gắng đứng dậy sau một lần vấp ngã
khá đau thì bạn mới biết được rằng cuộc sống không đáng sợ như
chúng ta nghĩ. “Điểm tựa của niềm tin” có rất nhiều câu chuyện còn
nghiệt ngã hơn trí tưởng tượng của tôi nữa. “Những vết cắt trong
đời” câu chuyện đã dạy tôi nhiều điều nhất. Một cô bé bị mẹ bỏ rơi,
bị bạn trai phản bội, không được bất cứ ai quan tâm đến. Nhưng về bề
ngoài thì cô ấy có tất cả. Mọi người đều nhìn cô ấy bằng một vẻ
thán phục. Nhưng có ai biết rằng mỗi buổi tối, cô lại nhốt mình vào
trong bóng tối, tự cắt vào bản thân mình để giải toả nỗi đau đớn
dai dẳng trong tim. Một sự mâu thuẫn khá lớn về vẻ bề ngoài và về
cuộc sống thực sự. Đó thế ấy, cuối cùng cô ấy cũng thành đạt để
vượt lên số phận của mình. Còn tôi thì sao, chỉ gặp một chút phiền
toái thì lại vấp ngã nhưng chưa bao giờ cố gắng đứng dậy. Tôi chợt
nhận ra rằng: dường như tôi chỉ sống lầm lũi trong những ngỏ ngách
của cuộc sống mà không hề bước ra ngoài để biết mình đang lắng nghe
mọi vật , đang cảm nhận và đang thực hiện ước mơ của bản thân.
Một giọt nước đã
rơi trúng vào hạt giống lúc hạt giống cần nó nhất…
Bạn có biết cầu vồng không?
Riêng tôi thì rất thích ngắm nó. Hồi bé, tôi cứ ngỡ rằng cầu vồng
chính là cánh cửa của bầu trời. Bước vào cầu vồng là một thế
giới khác sẽ mở ra. Và nó cũng là điểm tựa tinh thần của tôi trong
cuộc sống. Mỗi lần nhìn thấy nó, mọi mệt nhọc, suy tư trong tôi lại
tan biến đi đâu mất. Tôi chỉ muốn tìm lại cảm giác ngây ngô của tuổi
thơ để xua tan đi cái vướng víu mệt nhọc ấy. Nhung trong lúc vấp ngã,
không lúc nào mà tôi thôi tìm kiếm một chiếc cầu vồng nào đó bất
chợt xuất hiện trên trời, nhưng tìm mãi mà không thấy. Liệu đó có
phải là Thượng Đế đang thách thức tôi một lần nữa? Nhưng tôi biết
rằng , chiếc cầu vồng thứ hai mà tôi tìm được là quyển sách “Điểm
tựa của niềm tin”.Tôi lại tìm thêm được một bài học bổ ích từ
câu chuyện “Phía sau cầu vồng”.
Một lớp sỏi đá màu mỡ
được vun đầy vào hạt giống….
Từ nhỏ, tôi luôn nhận được
sự dìu dắt của cha mẹ, sự dạy dỗ của thầy cô nên cũng hiểu biết
khá nhiều. Tôi biết một cậu bé bị dị tật ở chân nhưng cậu muốn trở
thành cầu thủ đá bóng. Với bao nhiêu tâm huyết, tôi luyện cậu đã trở
thành một cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ. Ánh sáng diệu kỳ
đã đến với cậu bé. Tôi còn biết về một anh thanh niên, nhà rất
nghèo anh muốn gia đình trở nên khá hơn và mình sẽ là người có ích
cho xã hội. Và ánh sáng đã chiếu sáng con đường trong sương mù dày
đặt. Kết quả là anh đã là thủ khoa đại học và bây giờ đây anh chính
là một người công an gương mẫu. Ánh sang còn đến với một cô bé mồ
côi nhung được cô giáo mang đến bàn tay dịu dàng nâng đỡ. Đó chính là
những tấm gương sáng, họ vượt qua rào cản để trở nên tốt đẹp hơn.
Ánh sáng diệu kỳ đang
tiếp tục sưởi ấm hạt giống ….
Tôi chợt nhận ra một điều: ta càng lâm vào hoàn cảnh khó khăn thì nghị lực niềm tin sẽ tiếp thêm cho ta sức mạnh để có một tương lai tốt đẹp. Tôi đã từng nghe một người nói: “Có rất nhiều linh hồn trong một cuốn sách …”. Và quả thật như vậy, những linh hồn ấy vẫn sống mãi, sống mãi để chữa lành những “mảnh ghép lệch” trong cuộc sống, thúc đẩy mọi người vượt lên nghịch cảnh. Cũng giống như một nguồn động viên lớn lao, ý nghĩa mà quyển sách “ Điểm tựa của niềm tin” đã dành tặng cho tôi.
Và bây giờ đây, hạt giống tâm
hồn đã thực sự nảy mầm….
Gửi
Lời Yêu Thương
Chắc hẳn ai ai trong chúng ta đều rất thích đọc
sách và dành riêng cho bản thân một quyển sách hay để nghiền ngẫm.Tôi cũng
vậy.Tôi cũng rất thích đọc sách.Và có một quyển sách đã đánh thức lương
tri và làm cho tôi phải suy nghĩ rất nhiều đó là quyển sách : “ Thư gửi
mẹ cha”.Tôi đã đọc được tại thư viện trường.
Như các bạn đã thấy sách là một nguồn tri
thức,một món quà vô giá mà ta nhận được.Nó cung cấp nhiều bà học hay trong cuộc
sống,kiến thức bổ ích ngoài những bài học.Nên việc đọc sách đối với em rất quan
trọng.Vì vậy mà vào thời gian rảnh em lại tranh thủ vào thư viện trường tìm
những quyển sách hay,bổ ích cho bản thân.Khi cầm trên tay quyển sách “thư gửi
cha mẹ”,thì em cũng hiểu được phần nào nội dung bên trong.Trước khi đọc quyển
sách này em nghĩ các bạn nên suy ngẫm mình đã làm gì cho cha mẹ vui ,mình đã
làm gì có lỗi với cha mẹ ,mình đã đền đáp lại những mong ước của cha mẹ?Khi đọc
quyển sách này nó cho biết tại sao ông trời lại sinh ra người cha ,người mẹ.Đó
là vì nếu không có cha mẹ thì mỗi chúng ta sẽ không trưởng thành,sẽ không được
dỗ dành và dạy bảo từ lúc mới chào đời .Và khi ta lớn ai sẽ là người luôn bên
cạnh ta mỗi khi ta gặp khó khăn hay vấp ngã trong cuộc sống.Và ai sẽ là người
dìu dắt chúng ta bước đến con đường tương lai đang rộng mở.Tất cả đó là nhờ vào
cha mẹ luôn ở bên.Chính vì vậy mà vào phần mở đầu sách đã cho ta biết sự hình
thành của người cha,người mẹ là quan trọng như thế nào?Những bức thư bên trong
chẳng hạn như “thư gửi mẹ ở trên cao xanh” của nhà văn Võ Thị Hảo,hay “thư gửi
mẹ mùa bao hiếu” của Trần Anh Vũ, “mẹ ơi,con nhớ mẹ” của Trương Mỹ Linh giúp em
cảm nhận rất nhiều tình cảm, những lời tâm sự,bọc bạch của con cái đối với cha
mẹ.Cuốn sách này không chỉ là lời tâm sự, giải bày mà còn chan chứa biết bao
ước muốn được báo hiếu,đền đáp lại công ơn to lớn đó.Không chỉ vậy đó còn là
lời nhắn nhủ để khoảng cách của con cái và cha mẹ được gần hơn.
Qua đó em còn thấy được khi xã hội ngày càng phát triển nhiều
giá trị đạo đức con người cũng bị thay đổi.Trên khắp bài báo thì xuất hiện
những tin tức nhưcon cái ngược đãi cha mẹ,và cha mẹ đối xử tệ với con cái,cha
mẹ lo kiếm tiền mà quên bổn phận …Đó cũng là những nguyên nhân làm cho khoảng
cách xa nhau.Em tâm đắc nhất là bức thư gửi mẹ trên cao xanh.Em cảm nhận được
sự ăn năn hối hận của tác giả chưa lần nào được thổ lộ lời yêu thương hat tặng
mẹ một đoá hoa nào.Vậy thì từ bây giờ em sẽ bắt đầu làm việc giúp đỡ mẹ,cha
nhiều hơn và làm những điều tốt cho cha mẹ vui lòng.
Các bạn hãy mau mau tìm đọc đến quyển sách
“thư gửi mẹ cha” này nhé vì ở đó bạn sẽ được gửi gắm rất nhiều tình yêu thương
.Và điều cuối cùng em mong các bạn hãy nói lời yêu thương đến cha mẹ ngay
từ bây giờ đừng bao giờ phải hối hận vì thời gian trôi qua quá nhanh mà mình
chưa kịp đền đáp
ĐÔI NÉT QUANG BÌNH
I. LỊCH SỬ
Quảng Ninh được thành lập năm 1963 với nền tảng là khu Hồng
Quảng và tỉnh Hải Ninh. Tên tỉnh là ghép tên của hai tỉnh Quảng Yên và Hải Ninh
cũ. Diện tích của toàn tỉnh Quảng Ninh là 8.239,243 km².
Biên giới giáp với Trung Quốc trước năm 1887 là sông Dương Hà
(còn gọi là An Nam Giang) bao gồm cả mũi Bạch Long nhưng Công ước Pháp-Thanh
1887 nhận kinh tuyến đông 105 độ 43 phút Paris làm đường phân định thì phần đất
này Pháp nhường cho nhà Thanh. Phần đất bị cắt gồm hơn bảy xã thuộc tổng Bát Tràng
và hai xã của tổng Kiến Duyên.
Hiện nay có một số ý kiến cho rằng vùng đất Trường Bình - Bạch
Long của huyện Phòng Thành Cảng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc là thuộc Việt Nam,
nhất là sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập và tuyên bố hủy bỏ mọi
hiệp ước về Việt Nam của thực dân Pháp với các nước khác. Như vậy vùng Bạch
Long - Trường Bình đúng ra phải được trả lại về Quảng Ninh nhưng đã không được
thực hiện. Rất nhiều người Kinh sống ở khu vực này tuyệt nhiên trở thành người
mất quê hương và trở thành 1 trong 56 dân tộc của Trung Quốc, gọi là dân tộc
Việt.
II.
VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
Quảng Ninh có toạ độ địa lí khoảng từ 106°26' - 108°31' E và từ
20°40' - 21°40' B.
Điểm cực bắc thuộc thôn Mỏ Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu.
Điểm cực nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Điểm cực tây thuộc
xã Bình Dương và xã Nguyễn Huệ, huyện Đông Triều. Điểm cực đông trên đất liền
là mũi Gót ở đông bắc phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, ngoài khơi là mũi Sa
Vĩ.
Phía tây giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp
vịnh Bắc Bộ, phía tây nam giáp tỉnh Hải Dương và Thành phố Hải Phòng, phía bắc
giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) với
cửa khẩu Móng Cái và Trinh Tường. Đường biên giới với Trung Quốc dài 132,8 km.
Biển Quảng Ninh có hơn 2.000 hòn đảo, chiếm 2/3 số đảo cả nước
(2078/2779), trong đó có 1.030 đảo có tên. Tổng diện tích các đảo là 619,913
km². Một số hòn đảo thuộc tỉnh Quảng Ninh là: đảo Trần và quần đảo Cô Tô (thuộc
huyện Cô Tô). Vùng nội thuỷ từ bắc xuống nam có những đảo chính như đảo Vĩnh
Thực, đảo Miễu, đảo Cái Chiên, đảo Thoi Xanh, đảo Vạn Vược, đảo Thoi Đây, đảo
Sậu Nam, đảo Co Bầu, đảo Trà Ngọ, đảo Cao Lô, đảo Trà Bàn, đảo Chén, đảo Thẻ
Vàng, đảo Cảnh Cước, đảo Vạn Cảnh, đảo Cống Tây, đảo Phượng Hoàng, đảo Nấc Đất,
đảo Thượng Mai và đảo Hạ Mai cùng vô số những đảo nhỏ trong vịnh Bái Tử Long và
Hạ Long.
Duyên hải Quảng Ninh chạy dài gần 200 hải lí từ lãnh hải Trung
Quốc ở phía đông đến địa giới thành phố Hải Phòng.
Quảng Ninh phần lớn là đồi núi cùng vị trí địa lí đáng ra phải
được xếp vào vùng núi và trung du phía bắc nhưng do kinh tế đặc biệt phát triển
và là 1 cực của tam giác kinh tế nên chính phủ xếp Quảng Ninh vào nhóm các tỉnh
đồng bằng sông Hồng.
III.
CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ
Cả tỉnh có gần 500 di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật... gắn
với nhiều lễ hội truyền thống, trong đó có những di tích nổi tiếng của Quốc gia
như chùa Yên Tử(Uông Bí), đền Cửa Ông(Cẩm Phả), Đình Trà Cổ (Móng Cái), di tích
lịch sử Bạch Đằng (Quảng Yên), chùa Long Tiên(TP Hạ Long ), đình Quan Lạn, chùa
Cái Bầu - Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm(Vân Đồn). đây là những điểm thu hút
khách thập phương đến với các loại hình du lịch văn hoá, tôn giáo, nhất là vào
những dịp lễ hội.
Hồ nước nhân tạo (hồ Yên Lập) - nơi có di tích chùa Lôi Âm
IV. ẨM THỰC QUẢNG NINH
Quảng Ninh nổi bật với các món ăn được chế biến từ các loài hải
sản của biển Quảng Ninh, trong đó có những đặc sản giá trị như hải sâm, bào
ngư, tôm, cua, sò, ngán, hầu hà, sá sùng, rau câu, hàu, sam, khau nhục.
Các đặc sản của địa phương như nem chua, nem chạo, rượu ngán,
tôm bò, bánh gật gù.
Hải
Phòng là một thành phố cảng và công nghiệp ở miền Bắc Việt Nam và là một thành
phố biển nằm trong Vùng duyên hải Bắc Bộ, còn là 1 trong 28 tỉnh/thành phố
duyên hải .
Hải
Phòng là một trong 5 thành phố trực thuộc trung ương và là một đô thị loại 1
trung tâm cấp quốc gia, là thành phố lớn thứ 3 của Việt Nam,có vị trí quan
trọng về kinh tế xã hội và an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước.
Là
thành phố cảng, cửa chính ra biển quan trọng của nước ta, là đầu mối giao thông
quan trọng Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp
tác kinh tế Việt Nam
- Trung Quốc. Hải Phòng là đầu mối giao thông đường biển phía Bắc. Với lợi thế
cảng nước sâu nên vận tải biển rất phát triển, đồng thời là một trong những
động lực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
Là
Trung tâm kinh tế - khoa học - kĩ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ và
là một trong những trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và
cả nước.(Quyết định 1448 /QĐ-TTg ngày 16/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ). Theo
kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009, dân số Hải Phòng là 1.837.302 người,
trong đó dân cư thành thị 847.058 người chiếm 46,1%, dân cư nông thôn 990.244
người chiếm 53,9%.
Hải
Phòng còn được biết đến với các tên gọi không chính thức như Thành phố Hoa
Phượng Đỏ (do thành phố trước đây trồng nhiều cây phượng), Thành phố Cảng (đây
là tên gọi không chính thức phổ biến ở miền Bắc trước 1975 do lúc đó Hải Phòng
là thành phố cảng lớn nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) hoặc Thành Tô
(một giai đoạn ngắn sau giải phóng miền Bắc vào năm 1955, gọi theo tên Tô Hiệu)
Hải
Phòng là trụ sở Bộ Tư lệnh Hải quân. Trụ sở của Bộ tư lệnh Quân khu 3 trong 8
Bộ tư lệnh Hải Phòng có nhiều khu công nghiệp, thương mại lớn và trung tâm dịch
vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc Bộ Việt Nam.
Thái Bình là vùng đất điển
hình cho nền văn minh lúa nước đồng bằng Bắc Bộ và là một trong những cái nôi
của các làn điệu dân ca ngọt ngào – câu chèo tinh tế.
Từ thời vua Hùng dựng nước
cư dân nơi đây đã biết trồng lúa nước, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, đánh cá…
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, những hình ảnh cùng các giá trị văn hóa đáng
quý đó vẫn được lưu giữ qua các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng (chùa Keo,
đền Đồng Bằng, đền Tiên La, khu di tích nhà Trần, đền thờ Lê Quý Đôn, khu lưu
niệm bác Hồ…) và các lễ hội dân gian phong phú, đặc sắc (hội chùa Keo, hội đền
Tiên La, hội đền Đồng Bằng, hội đền Côn Giang, hội Lơ, hội trình nghề La Vân,
hội chiếu làng Hới, hội làng An Cố…). Hiện Thái Bình còn 144 di tích với 2011
lễ hội được lưu giữ. Đó là những tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo và là thế
mạnh của du lịch Thái Bình.
Đến với các lễ hội truyền
thống Thái Bình, ngoài việc lễ Phật, du khách có thể tham gia các trò chơi dân
gian như: đấu vật, đánh gậy, múa đốc, múa kiếm, thả diều, bơi trải, kéo co, kéo
chữ, chọi trâu… hay xem các hội thi đặc sắc như: thi nấu cơm, thi bắt vịt, thi
ném pháo, thi dệt chiếu hoa… và được hòa mình vài không khí “sáng rối, tối
chèo”
Đến với các làng nghề
truyền thống (dệt chiếu làng Hới, chạm bạc Đồng Xâm, nghề thêu Minh Lãng, rối
nước Nguyên Xá…), du khách không chỉ tham quan, mua sẳm mà còn được trực tiếp
tham gia làm và học nghê từ các nghệ nhân nổi tiếng
Bên cạnh đó, các du lịch
sinh thái như Cồn Vành, cồn Thủ, làng vườn Bách Thuận… cũng mang lại cho du
khách những trải nghiệm kỳ thú và những phút giây nghỉ dưỡng tuyệt vời.
Đồng Châu, Thái Bình
Thanh Hóa là một tỉnh có diện tích tự
nhiên 11.106,09km2, nằm ở cực Bắc Trung bộ Việt Nam, cách Thủ đô Hà
Nội 150 km về phía Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560km.
Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc bộ với chiều dài bờ biển 102km.
Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc bộ với chiều dài bờ biển 102km.
Tọa độ địa lý: 19o - 18 -
20o40 vĩ độ Bắc
104o22 - 106o4
kinh độ Đông.
Thanh Hóa nằm ở vị trí cửa ngõ nối
liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ, có một vị trí rất thuận lợi:
- Đường sắt và Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10
chạy qua vùng đồng bằng và ven biển, đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh
xuyên suốt vùng trung du và miền núi, tạo điều kiện thuận lợi giao lưu với các
tỉnh và thành phố khác trong cả nước.
- Quốc lộ 45, 47 nối liền các huyện
đồng bằng ven biển với vùng miền núi, trung du của tỉnh, Quốc lộ 217 nối liền
Thanh Hóa với tỉnh Hủa Phăn của nước bạn Lào.
- Hệ thống sống ngòi của tỉnh phân bố
khá đều với 4 hệ thống sông đổ ra biển bằng 5 cửa lạch chính. Cảng biển Nghi
Sơn là cửa ngõ của Thanh Hóa trong giao lưu quốc tế và khu vực.
- Sân bay Sao Vàng có khả năng mở
rộng kết hợp dịch vụ dân dụng.Thanh Hóa là tỉnh nằm trong vùng ảnh hưởng của
những tác động từ khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh) và những tác động từ các vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ và Nam bộ
nên có một vị trí rất thuận lợi trong giao lưu với các tỉnh, thành phố trong cả
nước và giao lưu quốc tế.
Bãi biển Hải Hòa( Thanh Hóa)
Bãi biển Hải Tiến hoang sơ( Hoằng Hóa, Thanh Hóa )
Với nhiều danh lam thắng cảnh, hệ
thống di tích, văn hoá phong phú về số lượng, độc đáo về nội dung, đa dạng về
loại hình, Nghệ An đang là miền đất hứa, là địa chỉ du lịch hấp dẫn đối với du
khách.
Đường vô xứ
Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…
Nghệ An là một tỉnh lớn nằm ở phía
Bắc miền Trung với cảnh quan thiên nhiên đẹp như tranh vẽ. Nghệ An còn là mảnh
đất đã sản sinh nhiều danh nhân lịch sử, nhà khoa bảng, nhà khoa học, nhà văn
hóa nổi tiếng như Mai Hắc Đế, thi sĩ Hồ Xuân Hương… Đặc biệt Nghệ An là quê
hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một nhà
yêu nước lớn, một danh nhân văn hóa thế giới và anh hùng giải phóng dân tộc.
Cũng như các tỉnh khác của Việt Nam ,
truyền thống văn hóa của Nghệ An rất phong phú. Là một tỉnh có nhiều dân tộc
cùng sinh sống, mỗi dân tộc đều mang một bản sắc văn hóa, ngôn ngữ riêng giàu
truyền thống. Nghệ An là xứ sở của nền văn hóa dân gian đặc sắc với những điệu
hò, hát phường vải, hát đò đưa… Du khách đến với bất kỳ lễ hội nào của tỉnh
Nghệ An đều có thể thưởng thức loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc này
Nghệ An là xứ sở của những lễ hội cổ
truyền diễn ra trên sông nước như lễ hội Cầu Ngư, Rước hến, Đua thuyền… Lễ hội
làm sống lại những kỳ tích lịch sử được nâng lên thành huyền thoại, giàu chất
sử thi, đậm đà tính nhân văn như lễ hội đền Cuông, lễ hội làng Vạn Lộc, làng
Sen. Miền núi có các lễ hội như Hang Bua, lễ hội Xàng Khan, lễ Mừng nhà mới, lễ
Uống rượu cần.
Nghệ An còn lưu giữ được nhiều di
tích văn hoá lịch sử, nhiều danh lam thắng cảnh, lễ hội văn hoá truyền thống -
đó là những yếu tố thuận lợi giúp cho du lịch Nghệ An phát triển.
Về du lịch biển, Nghệ An có 82km bờ
biển với nhiều bãi tắm đẹp hấp dẫn khách du lịch quốc tế như bãi biển Cửa Lò,
Cửa Hội; Nghi Thiết, Bãi Lữ (Nghi Lộc), Quỳnh Bảng, Quỳnh Phương (Quỳnh Lưu),
Diễn Thành (Diễn Châu). Đồng thời Nghệ An rất có lợi thế phát triển du lịch văn
hóa. Hiện nay Nghệ An có trên 1 ngàn di tích lịch sử văn hoá, trong đó có gần
200 di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, đặc biệt là Khu di tích Kim Liên,
quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hàng năm đón xấp xỉ 2 triệu lượt nhân dân
và du khách đến tham quan nghiên cứu.
Thời gian qua, lượng khách du lịch
đến Nghệ An ngày càng tăng. Riêng thời kỳ 2002- 2008 lượng khách du lịch đạt
tốc độ tăng trưởng bình quân 20,4% /năm; doanh thu du lịch tăng bình quân 26,5%
năm. Điều đó chứng tỏ, trong những năm qua du lịch Nghệ An đã có bước phát
triển nhanh và ngày càng cho thấy đây là một ngành kinh tế quan trọng trong cơ
cấu kinh tế của tỉnh, đóng góp cho ngân sách địa phương ngày càng nhiều. Du
lịch phát triển thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa nông thôn, tạo thêm việc làm
cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho các tầng
lớp nhân dân; nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo...
Khu di tích lịch sử Kim Liên, cách
trung tâm Tp Vinh 12 km về phía Tây Nam, là khu di tích tưởng niệm Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn. Nơi đây gắn với thời niên thiếu của
Chủ tịch Hồ Chi Minh và còn lưu giữ những kỷ niệm thuở nhỏ của cậu bé Nguyễn
Sinh Cung, những dấu tích và những kỷ vật của gia đình.
Làng Sen, quê nội của Bác, tên chữ là
Kim Liên (bông sen vàng). Làng có nhiều hồ thả sen suốt hai bên đường làng.
Ngôi nhà của Chủ tịch Hồ Chí Minh sống thuở nhỏ dựng bằng tre và gỗ, 5 gian,
lợp tranh. Trong nhà có những đồ dùng giống như các gia đình nông dân: phản gỗ,
chõng tre, cái võng gai, bàn thờ… Nhà được dựng năm 1901 do công sức và tiền
của dân làng góp lại làm tặng ông Nguyễn sinh Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi ông Sắc đỗ Phó Bảng đem lại vinh dự cho cả làng.
Cách làng Sen 2km là làng Chùa (tên
chữ là Hoàng Trù) - quê ngoại của Bác Hồ - và cũng là nơi Người cất tiếng khóc
chào đời, được mẹ nuôi dạy những năm ấu thơ.
Khu du lịch thành phố Vinh nằm ở vị
trí giao thông thuận tiện, có quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc - Nam
chạy qua, có sân bay Vinh nằm cách trung tâm thành phố không xa. Thành phố Vinh
còn là đầu mối giao thông quan trọng giữa miền Bắc và miền Nam . Khách đi du lịch theo tuyến
quốc lộ 1A ngày càng tăng, lượng du khách đến với Nghệ An theo đó cũng tăng.
Thành phố Vinh từ lâu đã hấp dẫn du
khách bởi một quần thể khu du lịch với những nét đặc trưng tiêu biểu của một đô
thị xứ Nghệ. Đến với thành phố Vinh, du khách có thể tham gia vào nhiều loại
hình du lịch như: du lịch nghiên cứu, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng...
Cách Thành phố Vinh 120 km về phía Tây
Nam, Vườn Quốc gia Pù Mát thuộc huyện Con Cuông, nằm trên sườn Đông của dải
Trường Sơn, dọc theo biên giới Việt Lào. Nơi đây có một số loài động vật, thực
vật quý hiếm cần phải được bảo tồn nghiêm ngặt như: sao la, thỏ vằn, niệc cổ
hung và một số loài thực vật như pơ mu, sa mu, sao hải nam...
Hiện nay, nhiều tổ chức bảo vệ môi
trường thế giới cũng như trong nước, đang có các dự án để bảo tồn và phát triển
vườn quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống tạo thành khu du lịch
sinh thái hấp dẫn.
Khu du lịch Cửa Lò là điểm du lịch
biển hấp dẫn với bãi cát trắng mịn chạy dài gần 10 km, thông ra Hòn Ngư, Hòn
Mắt, Đảo Lan Châu e ấp ven bờ như một nét chấm phá của bức tranh thuỷ mạc. Tất
cả đã tạo ra cho Cửa Lò có một sức hấp dẫn mạnh mẽ với du khách thập phương.
Nghệ An còn là nơi có nhiều món ăn
ngon, đặc sản nổi tiếng: cháo lươn Vinh, cơm lam, nhút Thanh Chương, tương Nam
Đàn, cam xã Đoài... là những sản phẩm du lịch có sức cuốn hút khách du lịch
quốc tế và trong nước.
Du lịch Cửa Lò Nghệ An
Cửa
Lò Nghệ An
SƯU TẬP TƯ LIỆU VỀ LỊCH SỬ
1/CÁCH MẠNG THÁNG 8 - 1945
Nhan đề
: Những hình ảnh lịch sử về Cách Mạng Tháng Tám 1945
Tác giả:
Hải Anh
Nơi xuất bản: Báo Đời Sống Và Pháp
Luật
Thời
gian xuất bản: 19/ 8/ 2014
Ngày 19/8/1945
đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi của dân tộc, đánh
dấu sự thành công của Cách mạng Tháng Tám, mở ra một kỷ nguyên
mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Sau khi họp nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào
(Tuyên Quang), trong tình hình hết sức khẩn trương, Đảng quyết định phát động và
lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân đồng minh Anh, Pháp
vào nước ta. Từ ngày 14/8, cuộc khởi nghĩa bắt đầu, trong hai ngày 14 và
15/8/1945, nhân dân tại Quảng Ngãi,
Hà Tĩnh đã nổi dậy giành chính quyền. Ngày 18/8, chính quyền các tỉnh Bắc
Giang, Hải Dương, Quảng Nam đã về tay nhân
dân.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Lệnh tổng khởi nghĩa được phát hành
rộng rãi và được toàn thể nhân dân đồng tình hưởng ứng.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Sáng ngày 19/8, hàng chục vạn nhân dân rầm rập tiến về
Quảng trường Nhà hát Lớn
Hà Nội. Đúng 11 giờ trưa, cuộc mít tinh bắt đầu.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Cách mạng Tháng Tám với không khí sục
sôi tại Hà Nội, thu hút mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước tham gia nổi dậy.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Ngày 19/8/945, cuộc mít tinh trở
thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm phủ Phủ Khâm sai Bắc Kỳ, trại
lính bảo an và các cơ sở của chính phủ bù nhìn. Đánh dấu mốc son lịch sử của cuộc Tổng khởi nghĩa
Cách mạng Tháng Tám.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Ngày 25/8/1945, ở Sài
Gòn tuần hành chào mừng Cách mạng Tháng Tám thành công.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Ngày 28/8/1945, Đoàn Giải phóng quân
ở Việt Bắc về duyệt binh ở quảng trường Nhà hát Lớn.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Duyệt đội quân du kích ở các chiến
khu về Hà Nội ngày 30/8/1945.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên Ngôn
Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Toàn cảnh lễ đài Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc Tuyên ngôn.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỉ tại
Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc lập,
tự do và chủ nghĩa Xã hội.
Nhan đề : Chiến dịch Biên giới 1950: Phá thế bao vây, cô lập
của quân Pháp, mở rộng vùng giải phóng
Tác giả: Mai Văn Quang
Nơi xuất bản: Báo
Quân Đội Nhân Dân
Thời gian xuất bản: 22/
10/ 2014
Chiến dịch Biên giới 1950: Phá thế bao vây, cô lập của quân
Pháp, mở rộng vùng giải phóng
QĐND
- Sau thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Thu Đông 1947, thực dân
Pháp đẩy mạnh việc củng cố, mở rộng hành lang Đông - Tây; đồng thời với vùng
chiếm đóng ở Trung du, đồng bằng Bắc Bộ, củng cố phòng tuyến biên giới phía
Đông Bắc. Tuy nhiên, đến giữa năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến tích cực cho cuộc
kháng chiến của nhân dân ta. Cách mạng Trung Hoa thành công, nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa cùng với hàng loạt nước
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra đời. Yêu cầu chiến lược của ta lúc này là phá tan âm mưu phong tỏa biên giới
phía Bắc của địch, mở đường giao lưu giữa nước ta với các nước anh em để
tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ về vũ khí, trang bị, vật chất của bạn bè quốc tế.
Trước tình hình trên, tháng 6 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ đạo Tổng Quân ủy,
Tổng Tư lệnh chuẩn bị chiến trường để quyết định mở chiến dịch Biên Giới.
Thực
hiện nhiệm vụ Trung ương Đảng giao, ngày 7 tháng 7 năm 1950, Bộ Tổng Tư lệnh
ra mệnh lệnh mở chiến dịch Biên Giới Cao - Lạng, lấy mật danh là Chiến dịch
Lê Hồng Phong. Ngày 27 tháng 7 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định
thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Đại tướng Võ
Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư
Đảng ủy mặt trận và Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Đảng ủy viên chiến
dịch gồm các đồng chí: Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng chiến dịch; Trần Đăng
Ninh - Chủ nhiệm Cung cấp; Lê Liêm - Chủ nhiệm Chính trị và Bùi Quang Tạo.
Cùng với đó, các cơ quan giúp việc cho Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch cũng gấp
rút được thành lập.
Trước ngày ta nổ súng mở màn chiến dịch, địch chia Liên
khu Biên Giới thành hai khu và hai phân khu Cao Bằng và Thất Khê, khu Lạng
Sơn, khu An Châu, với tổng số binh lực vừa chiếm đóng và cơ động là 11 tiểu
đoàn, 9 đại đội bộ binh, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh, 27 khẩu pháo
các loại và 8 máy bay. Lực lượng địch tại biên giới hầu hết là các đơn vị Âu
- Phi tinh nhuệ, có truyền thống chiến đấu tại châu Âu. Tại các vị trí chiếm
đóng chúng xây dựng thành các cụm cứ điểm với binh lực từ hai đại đội trở
lên… Trong các cứ điểm đều xây dựng lô cốt, hầm hào tương đối kiên cố, hỏa lực
chi viện được cho nhau.
Ban đầu
ta định chọn Cao Bằng là điểm mở màn chiến dịch. Sau khi đi trinh sát thực địa
Cao Bằng, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy, Cao Bằng tuy là một thị xã cô lập,
đột xuất, nhưng đó là quần thể kiến trúc phức tạp, có hệ thống đồn trại, pháo
đài kiên cố do hai tiểu đoàn địch đóng giữ, nếu đánh Cao Bằng “ta chưa có thể
nói chắc bảo đảm thắng lợi”. Ngày 16 tháng 8, sau khi cân nhắc, thảo luận, Đảng
ủy chiến dịch đi đến quyết nghị một phương án tác chiến mới là đánh Đông Khê
trước để mở màn chiến dịch; đồng thời, tổ
chức tiêu diệt quân ứng cứu cho Đông Khê, sau đó đánh xuống Thất Khê và chỉnh
đốn rồi tiếp tục đánh Cao Bằng.
Chiến
dịch Biên Giới là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên của Quân đội ta với
khoảng 2/3 lực lượng chủ lực của Bộ, cùng lực lượng chủ lực của Liên Khu Việt Bắc và lực lượng bộ đội
địa phương, dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Tổng số lực lượng
tham gia chiến dịch tương đương hai đại đoàn, được phân chia làm ba mặt trận:
Mặt
trận Đông Khê đánh cụm cứ điểm Đông Khê và quân dù có thể nhảy xuống quanh
Đông Khê. Lực lượng tham gia là Trung đoàn 174 (được
tăng cường 2 tiểu đoàn), Trung đoàn 209, Trung đoàn 36 Đại đoàn 308, Tiểu
đoàn pháo 75mm thiếu.
Mặt
trận đánh quân ứng chiếm do Đại đoàn 308 đảm nhiệm, bố trí ở đoạn đường giữa
Đông Khê - Thất Khê.
Mặt
trận Na Sầm- Lạng Sơn gồm các Tiểu đoàn
428 của Liên khu Việt Bắc, Tiểu đoàn 888 Lạng Sơn có nhiệm vụ phá đường, tiêu
hao, quấy rối, phục kích địch trên đoạn đường Thất Khê - Lạng Sơn.
Công
tác bảo đảm cho chiến dịch rất lớn. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần Đăng
Ninh - Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, trực tiếp chỉ huy bộ máy bảo đảm chiến dịch.
Đến trung tuần tháng 9, công tác hậu cần chiến dịch cơ bản hoàn thành với hơn 4.000 tấn lương thực, súng đạn đã được
vận chuyển đến những địa điểm thích hợp, bảo đảm đúng ý định của chiến dịch..
Chiến
dịch Biên Giới thực tế diễn ra ba đợt: Đợt 1 từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 9
năm 1950: Ta tập trung lực lượng đánh trận then chốt tiêu diệt cụm cứ điểm
Đông Khê. Đợt hai từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 9 năm 1950: Tiến hành trận
then chốt quyết định tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác - tông. Đợt ba từ ngày 09 đến ngày
14 tháng 10 năm 1950: Địch ở Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn rút chạy, ta truy
kích địch giải phóng Thất Khê, Na Sầm.
Trong
chiến dịch này, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ
đạo chuẩn bị chiến trường chu đáo, nghiên cứu nắm địch chính xác, xác định
đúng phương châm chiến dịch: “đánh điểm diệt viện”, có kế hoạch tác chiến phù
hợp. Sau khi ta đánh “điểm” Đông Khê, chia cắt lực lượng địch giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, chúng buộc phải
đưa lực lượng “viện” từ Lạng Sơn lên ứng cứu cho lực lượng bị cô lập, chia cắt
ở Cao Bằng, tạo điều kiện để ta thực hiện vận động tiến công tổ chức chia cắt,
bao vây tiêu diệt từng bộ phận tiến tới tiêu diệt hoàn toàn hai binh đoàn cơ
động Lơ Pa-giơ và Sác Tông, đẩy lui binh đoàn Đờ La Bôm đến giải vây.
Kết
quả: Sau 29 ngày đêm chiến đấu ta đã đánh và tiêu diệt gần 10 tiểu đoàn địch,
loại khỏi vòng chiến đấu 8.296 tên (bắt sống 3.576 tên, có 3.000 là lính Âu -
Phi). Thu trên 3.000 tấn vũ khí, phương
tiện…
Chiến
thắng Biên Giới 1950, không chỉ tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của
quân Pháp mà còn giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, khu căn cứ địa Việt Bắc
được mở rộng, nối liền với Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và các nước bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Vòng vây biên giới bị đập tan, hành lang Đông - Tây bị chọc thủng, Kế hoạch
Rơ-ve bị sụp đổ; kế hoạch quân sự, chính trị của Pháp cơ bản bị phá sản; làm
đảo lộn về chiến lược, chiến thuật của quân đội viễn chinh Pháp, chúng hoảng
loạn bố trí lại lực lượng, thay đổi chỉ huy… Đây là thất bại chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược của đế quốc
Pháp đến lúc bấy giờ.
Nhan đề : Chiến dịch Bình Giã: Nét độc đáo trong nghệ thuật “ tạo thế,
khơi ngòi”
Tác giả: Vũ Bình Tuyển
Nơi xuất bản: Quân đội nhân dan
Thời gian xuất bản: 22 / 11 / 2014
Địa chỉ: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/nhung-moc-son-lich-su/chien-dich-binh-gia-net-doc-dao-trong-nghe-thuat-tao-the-khoi-ngoi/332840.html
Chiến dịch Bình Giã: Nét độc đáo trong nghệ thuật “tạo thế,
khơi ngòi”
QĐND
Online - Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên của bộ đội chủ
lực miền Đông Nam Bộ, góp phần vào việc chuyển hóa tương quan so sánh lực lượng
trên chiến trường, tạo ra thế và lực mới để đánh bại Chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch Bình Giã không chỉ đánh dấu bước
trưởng thành vượt bậc của quân chủ lực miền Nam mà còn góp phần phát triển
nghệ thuật chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đầu
năm 1964, trên chiến trường miền Nam, phong trào đấu tranh chính trị cùng với
hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang địa phương đã làm thất bại một bước
quan trọng quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; mâu thuẫn
trong nội bộ chính quyền Sài Gòn càng thêm sâu sắc; kế hoạch Xtalây-Taylo phá
sản hoàn toàn. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố, từ tháng 3-1964, đế quốc
Mỹ thực hiện kế hoạch mới, Kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara, nhằm bình định miền
Nam trong vòng 18 tháng, hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ hoàn toàn chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”.
Quán
triệt tinh thần Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung
ương Cục miền Nam, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch Đông
Xuân 1964- 1965 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, lấy Bình Giã làm điểm quyết
chiến của chiến dịch. Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ đêm 2-12-1964 đến ngày
3-1-1965, được chia thành 2 đợt: đợt 1: từ ngày 2 đến 17 tháng 12 năm 1964; đợt
2, từ 27 tháng 12 năm 1964 đến 3 tháng 1 năm 1965.
Rạng
sáng ngày 2 tháng 12 năm 1964, chiến dịch mở màn, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã sử
dụng Đại đội 445 (bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa) đánh vào “ấp chiến lược”
Bình Giã thực hiện mở đầu và “khơi ngòi” chiến dịch. Khi ấp Bình Giã bị tiến
công, địch điều Tiểu đoàn 38 biệt động quân đến ứng cứu và đã bị ta đánh thiệt
hại nặng. Tuy nhiên, do ta sử dụng lực lượng “khơi ngòi” không phù hợp, nên
không chiếm được toàn bộ “ấp chiến lược” Bình Giã; khi địch phản kích, ta
không trụ lại được, chưa tạo điều kiện cho lực lượng chủ yếu tiến công tiêu
diệt địch ngoài công sự, trận đánh khơi ngòi không đạt yêu cầu đề ra, bộ đội
ta phải chuyển ra ngoài khu vực Bình Giã. Đến ngày 7 tháng 12 năm 1964, ta sử
dụng Đại đội 445 được phối hợp 1 đại đội của Trung đoàn 761 tiến công ấp Bình
Giã lần 2 và điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 761 và 762 tiến công chi khu
quân sự Đất Đỏ để kéo địch đến tiếp viện. Trong trận tiến công này ta tiêu diệt
được 1 đại đội quân Việt Nam cộng hòa. Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1964, do áp lực
của ta ở Bình Giã, Đức Thạnh, Đất Đỏ, địch phải tổ chức cuộc hành quân “Bình
Tuy 33”, dùng Chi đoàn thiếp giáp số 3 giải tỏa dọc Đường số 2 lên đến Bình
Giã, Đức Thạnh. Khi đoàn xe cơ giới địch từ Đức Thạnh trở về, lọt vào trận địa
phục kích của ta, toàn trung đoàn vận động xuất kích, thực hiện chặn đầu,
khóa đuôi, chia cắt đội hình địch ra làm hai. Sau khoảng 1 giờ chiến đấu, ta
làm chủ trận địa, tiêu diệt gọn Chi đoàn thiết giáp số 3, gồm 14 chiếc M113,
diệt trên 100 tên địch, có 9 cố vấn Mỹ, 5 sĩ quan quân đội Sài Gòn, thu nhiều
vũ khí trang bị. Đây là lần đầu tiên ở chiến trường miền Đông, ta diệt gọn 1
chi đoàn thiết giáp địch, đánh bại chiến thuật “thiết xa vận” của địch và bước
đầu ta đã thành công trong việc điều viện binh của địch tới để tiêu diệt.
Rút
kinh nghiệm đợt 1, bước vào đợt 2, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã tập trung toàn bộ
lực lượng trên khu vực Bình Giã, Đức Thạnh và Đường số 2 đánh chiếm và trụ lại
“ấp chiến lược” Bình Giã, dùng hỏa lực uy hiếp mạnh chi khu quân sự Đức Thạnh,
buộc địch phải tiếp viện ứng cứu. Lực lượng còn lại của Trung đoàn 761 bố trí
sẵn sàng vận động tiến công tiêu diệt quân địch đến tiếp viện bằng đường bộ
hoặc đường không. Đêm ngày 27 tháng 12, ta tiến công và làm chủ “ấp chiến
lược” Bình Giã; ngày 28 tháng 12, địch điều Tiểu đoàn 33 biệt động quân để cứu
nguy cho “ấp chiến lược” Bình Giã. Do phán đoán đúng ý định của địch, ta đã bố
trí lực lượng phòng không, hạ tại chỗ 12 máy bay lên thẳng, địch không thể đổ
quân xuống đông bắc Bình Giã mà buộc phải đổ quân xuống đông nam Bình Giã,
vào đúng trận địa phục kích của Trung đoàn 761. Khi Tiểu đoàn 33 biệt động
quân vừa đặt chân xuống đất liền bị hỏa lực của ta bắn trùm lên đội hình, các
đơn vị đồng loạt xung phong diệt gần hết tiểu đoàn này. Ngày 30-12, Trung
đoàn 761 đã bắn rơi máy bay lên thẳng trinh sát có cố vấn Mỹ. Đảng ủy, Bộ Chỉ
huy chiến dịch nhận định và xác định phương án phục kích diệt địch khi địch
đưa lực lượng đến tìm xác cố vấn Mỹ. Chiều ngày 31 tháng 12, khi địch lọt vào
trận địa phục kích, bộ đội nhất loạt nổ súng nhanh chóng diệt gọn Tiểu đoàn 4
lính thủy đánh bộ với gần 600 tên, kết thúc thắng lợi trận then chốt thứ 3 của
chiến dịch... Sau 7 ngày chiến đấu liên tục, ta giành thắng lợi lớn. Đến ngày
3 tháng 1 năm 1965, Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh kết thúc chiến dịch tiến
công Bình Giã.
Thắng
lợi của chiến dịch Bình Giã đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về chiến
thuật, đặc biệt là nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi” để điều viện binh địch. Việc
chọn điểm “khơi ngòi” vào “ấp chiến lược” Bình Giã là một quyết định sáng suốt
của Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch, bởi vì “ấp chiến lược” Bình Giã là một vị
trí có giá trị cả về quân sự và chính trị; là một mắt xích trong hệ thống
phòng thủ phía đông Sài Gòn. “Ấp chiến lược” Bình Giã được chính quyền Sài
Gòn coi là ấp “kiểu mẫu”, vì ở đây tập trung phần lớn là gia đình hậu phương
của các lực lượng biệt động quân và thủy quân lục chiến của quân đội Việt Nam
cộng hòa cùng phần đông giáo dân bị địch lợi dụng chống phá ta. Vì vậy, khi
ta đánh ấp Bình Giã, địch sẽ phản ứng ngay bằng cả đường bộ và đường không. Mặt
khác, Bộ chỉ huy chiến dịch chọn “ấp chiến lược” Bình Giã phù hợp với trình độ
tác chiến của bộ đội chủ lực lúc đó. Nếu như chọn chi khu Xuyên Mộc làm điểm
khơi ngòi của chiến dịch thì ta hoàn toàn bất lợi, bởi vì ở đó địch xây dựng
công sự vững chắc, mà trình độ đánh công kiên của bộ đội ta còn hạn chế, nên
khó chiếm được chi khu để kéo địch ra tiêu diệt. Thực tiễn diễn biến của chiến
dịch đúng như nhận định và kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch. Khi
“ấp chiến lược” Bình Giã bị tấn công, địch đã vội vã điều quân đến ứng cứu
trong thế bị động, lúng túng. Ngược lại, lực lượng ta chủ động chặn đầu, khóa
đuôi, bao vây, chia cắt, đánh cả phía trước, phía sau, bên sườn, đánh địch cả
trên không, mặt đất tiến tới tiêu diệt gọn từng bộ phận. Ngoài việc tập trung
lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu thì Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch đã
phát động nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ, giải phóng đất đai.
Chiến
dịch Bình Giã tuy nhỏ, với quy mô liên trung đoàn, nhưng có ý nghĩa lớn về
chiến lược và nghệ thuật chiến dịch, có nghệ thuật đặc trưng, đó là nghệ thuật
“tạo thế, khơi ngòi”, một cách đánh độc đáo và sáng tạo của quân chủ lực miền
Nam. Thắng lợi của chiến dịch đã để lại những kinh nghiệm vô cùng quý báu cho
chiến dịch sau này trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Nhan đề : Đại thắng mùa xuân 1975 – Đỉnh
cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam
Tác giả: Điện tử Cao Bằng
Nơi xuất bản: Điện tử Cao Bằng
Thời gian xuất bản: 1/12/2014
Địa chỉ:
http://www.caobang.gov.vn/content/%C4%91%E1%BA%A1i-th%E1%BA%AFng-m%C3%B9a-xu%C3%A2n-1975-%C4%91%E1%BB%89nh-cao-c%E1%BB%A7a-ngh%E1%BB%87-thu%E1%BA%ADt-qu%C3%A2n-s%E1%BB%B1-vi%E1%BB%87t-nam
ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 - ĐỈNH CAO CỦA NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ VIỆT NAM
Cách đây 39 năm, với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh dấu bước trưởng
thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và
trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi oanh liệt đó đã tạo ra bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hiệp định Pari được ký kết, nhưng với bản chất ngoan cố, đế quốc
Mỹ chưa chịu từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất
nước ta. Nắm được âm mưu của địch, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu
năm 1975 đã kịp thời đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch trong
tình hình mới, chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết tâm chiến lược,
giải phóng miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ
bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là đỉnh cao của
sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công để đánh bại và làm
tan rã toàn bộ lực lượng địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có
lợi nhất. Qua đó, thể hiện nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và tài thao lược
quân sự sắc bén, sáng tạo, táo bạo và đúng đắn của Đảng ta. Sự kết hợp giữa
tiến công quân sự của bộ đội chủ lực và nổi dậy của quần chúng được thực hiện
hết sức chặt chẽ, hiệu quả trong suốt cuộc Tổng tiến công. Những đòn tiến
công quân sự của bộ đội chủ lực, bằng một loạt trận đánh hiệp đồng binh chủng
quy mô lớn, đánh thẳng vào các thành thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự lớn
của địch, tiêu diệt, làm tan rã lực lượng lớn và gây cho chúng hoang mang tột
độ đã tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy,
đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở địa phương, cơ sở để giành quyền làm chủ. Mặt
khác, sự nổi dậy mạnh mẽ của lực lượng quần chúng đông đảo trên nhiều địa bàn
từ nông thôn đến thành thị, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt đã tạo
thuận lợi cho bộ đội chủ lực cả về thế, lực và điều kiện để nhanh chóng đập
tan sự kháng cự của địch; đồng thời, để tập trung lực lượng vào những mục
tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công.
Ngày 4/3/1975, bộ đội ta mở Chiến dịch Tây Nguyên - mở đầu cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ngày 10 và 11/3/1975, quân ta tiến
công, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, từ ngày 14/3 - 3/4/1975, quân
ta tiến công, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây
Nguyên. Ngày 5/3/1975, quân ta mở chiến dịch Trị - Thiên - Huế, giải phóng tỉnh
Quảng Trị (19/3); từ ngày 21 - 25/3/1975, quân ta tiến công, giải phóng thành
phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, tiêu diệt và làm tan dã toàn bộ quân địch trên
chiến trường Trị - Thiên.
Từ ngày 26 - 29/3/1975, quân ta mở chiến dịch giải phóng Đà Nẵng,
bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An (29/3), làm thay đổi hẳn cục diện và so sánh
thế trận lực lượng ngày càng có lợi cho ta. Ngày 1/4/1975, giải phóng Bình Định,
Phú Yên. Ngày 3/4/1975, giải phóng Khánh Hoà nối liền vùng giải phóng từ Tây
Nguyên, Trị Thiên và các tỉnh Trung Bộ.
Trên cơ sở những thắng lợi quyết định, ngày 14/4/1975, Bộ
Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và
toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc
thắng”, ngày 26/4/1975, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công đồng loạt vào các mục
tiêu, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Ngày 29/4/1975, quân ta tiến
công tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn chủ lực số 5, 7, 25, 18 và 22 của
quân đội Sài Gòn. Các binh đoàn thọc sâu tiến vào cách trung tâm thành phố
Sài Gòn từ 10 - 20 km. Đại sứ Mỹ và các nhân viên quân sự, binh lính cuối
cùng của Mỹ lên máy bay trực thăng rút khỏi Sài Gòn (sáng 30/4). 5 giờ ngày
30/4/1975, quân ta mở đợt tiến công cuối cùng. Vào lúc 10 giờ 45 phút, phân đội
xe tăng thọc sâu của Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập. Quân ta bắt toàn bộ nội
các của chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu
hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của Dinh Độc Lập
lúc 11 giờ 30 phút. Trong 2 ngày 30/4 và 1/5, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ
trang các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các Quân khu 8 và 9 nắm thời cơ, phát
động quần chúng nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ địch, giải phóng
hoàn toàn các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, vùng biển và các đảo ở Tây Nam của Tổ quốc.
Hơn một triệu quân đội Sài Gòn và cả bộ máy chính quyền địch bị đập tan, chế
độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng trong hơn 20 năm với 5 đời tổng thống
đã hoàn toàn sụp đổ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dạy mùa Xuân 1975 toàn thắng.
Có thể khẳng định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975 đã kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, nắm vững tư tưởng chiến lược
tiến công, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt
Nam với những nội dung chủ yếu là: nghệ thuật lựa chọn hướng, mục tiêu tiến
công đúng đắn, thời cơ tiến công thích hợp; nghệ thuật tổ chức xây dựng lực
lượng và cơ động, tập trung lực lượng kịp thời; nghệ thuật xác định phương
pháp tác chiến (cách đánh), hình thức tác chiến phù hợp; nghệ thuật lợi dụng,
khai thác triệt để sai lầm của địch, hạn chế điểm mạnh, khoét sâu điểm yếu của
chúng; thực hành tiến công mãnh liệt, thần tốc, táo bạo, bất ngờ để tiêu diệt
từng bộ phận lớn quân địch, tiến tới tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch.
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải
phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng quy mô
lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của
Quân đội nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác
chiến hiệp đồng quân, binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt
Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nhan đề : Diễn biến chiến
thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ
Tác giả: Phan Dương
Nơi xuất bản:
vnexprees.net
Thời gian xuất bản: 2/
5/ 2014
Địa chỉ: http://vnexpress.net/photo/thoi-su/dien-bien-chien-thang-lay-lung-dien-bien-phu-2983460.html
Diễn biến chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ
Khi xây dựng Điện Biên Phủ thành cứ điểm mạnh
nhất Đông Dương 60 năm trước, thực dân Pháp tin chắc lòng chảo này sẽ nghiền
nát Việt Minh. Nhưng
quân đội Việt Minh, từ thế yếu đánh thế mạnh, giành chiến thắng lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu.
Cuối năm 1953, Pháp sa lầy vào trên chiến trường Đông Dương. Để tìm giải pháp đàm phán ưu thế, Henri Navarre được bổ nhiệm
làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Ngày 20/11/1953, Pháp bắt đầu nhảy
dù xuống Điện Biên Phủ, và xây dựng nơi đây thành pháo đài bất khả xâm phạm.
Lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ tinh nhuệ và được trang bị vũ
khí tối tân với hệ thống phòng ngự liên hoàn. Có 2 sân
bay là Mường Thanh và Hồng Cúm.
Tại Điện Biên Phủ, Pháp còn nhận được sự hỗ
trợ rất lớn của Mỹ về hậu cần và vũ khí. Trong ảnh, máy bay vận tải hạng nặng
C119 của Mỹ chuẩn bị cất cánh chở hàng giúp Pháp.
Có 16.000 quân Pháp tại đây, được bố trí ở 3
phân khu. Phân khu Bắc gồm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Phân khu trung tâm gồm
các cao điểm phía Đông, sân bay Mường Thanh, và các cứ điểm phía tây Mường
Thanh. Phân khu Nam gồm cụm cứ điểm và sân bay Hồng Cúm.
Với quân đông, hỏa lực mạnh, hệ thống công sự
vật cản vững chắc, quân lương đầy đủ, người Pháp cho rằng tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ thực sự là "pháo đài khổng lồ không thể công phá".
Pháp tin Việt Minh với cách đánh truyền thống, khó khăn vũ khí và nhất là hậu
cần sẽ dễ dàng sa lưới.
Vì thế, ngay từ đầu năm 1954, Pháp cho máy bay
rải tuyền đơn thách thức Việt Minh tấn công.
Về phía Đảng Lao Động Việt Nam, dù thấy trước nhiều khó khăn nhưng xác định Điện
Biên Phủ là cơ hội lớn sẽ tạo nên bước ngoặt chiến lược, từ đó chấm dứt cuộc
kháng chiến trường kỳ.
Quân đội Việt Nam tham gia chiến dịch tuy nhiều
hơn quân Pháp, song về hỏa lực và phương tiện chiến tranh thì quân Pháp có ưu thế. Mặt khác, Pháp được bảo vệ
trong hệ thống công sự trận địa vững chắc. Nếu không có phương án tác chiến
đúng đắn thì khó có thể thắng địch. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Trận này rất quan trọng
phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh".
Ngày 14/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã
đưa ra phương án "đánh nhanh, giải quyết nhanh" và
dự định ngày nổ súng là 20/1. Phương án này đặt kế hoạch tiêu diệt Điện Biên Phủ trong 3 ngày đêm bằng những
đợt tiến công ồ ạt. Song một đơn vị đại bác vào trận địa chậm và kế hoạch bị
lộ nên lịch tấn công dời đến ngày 26/1. Ngày đêm 25/1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã suy nghĩ và đưa ra "quyết định khó
khăn nhất trong đời cầm quân", chuyển từ "đánh nhanh, giải
quyết nhanh", sang "đánh chắc, tiến chắc", đánh
dài ngày theo kiểu bóc vỏ từng cứ điểm đối phương.
Để khắc phục vấn đề hậu cần, Đảng Lao động Việt
Nam đã huy động tối đa sức người, sức của. Dân quân tham gia chiến dịch lên đến
260.000, cao gấp nhiều lần bộ đội chiến đấu. Tính tổng cả chiến dịch đã huy động
tới 12 triệu ngày công. Trong ảnh, công an bảo vệ dân quân mở đường cho
chiến dịch Điện Biên Phủ.
Bên cạnh xe cơ giới, chiến dịch Điện Biên Phủ đã huy động hơn 20 nghìn chiếc xe đạp thồ tham gia vận chuyển
hàng hóa, vũ khí. Ban đầu, một xe chỉ chở được 100 kg, nhưng sau cải tiến
thêm tay ngai, quấn lốp, mỗi xe chở được trên 200 kg, có xe 300
kg. Xe của chiến sĩ Ma Văn Thắng, quê Phú
Thọ chở được 352 kg, đạt kỷ lục trong chiến dịch Điện
Biên Phủ.
Đường vận chuyển trên sông Nậm Na cũng được
khai thông. Dân công đã đóng được 11.600 bè gỗ, tổ chức vận chuyển được 1.700
tấn gạo. Để chống chọi với thời tiết núi rừng khắc nghiệt, các đơn vị bộ đội
tổ chức ăn sạch, ở sạch, dựng bếp Hoàng Cầm, tăng gia sản xuất. Vì thế trong
chiến dịch sức khỏe bộ đội tốt, không có dịch bệnh xảy ra.
Hơn hết, Pháp không ngờ Việt Nam đã gỡ lựu
pháo 105 mm và pháo cao xạ 37 mm, dùng sức người kéo vào lòng chảo Điện Biên Phủ. Quân đội Việt Minh cũng xây dựng được
hệ thống giao thông hào chằng chịt hơn 400 km, và ngày càng khép chặt vòng vây quân Pháp. Để đem đến quyết định thắng lợi trên đồi
A1, quân đội Việt Nam đã gỡ mìn, lấy thuốc nổ, chuẩn bị khối bộc phá
1000 kg.
17h30 ngày 13/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp ra lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Đợt 1 từ13/3 đến 17/3, ViệtMinh tấn
công vào phân khu Bắc. Sau 5 ngày đã làm chủ Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Chiến thắng này mở
rộng cánh cửa phía bắc Điện Biên Phủ và khích lệ tinh thần
chiến sĩ.
Đợt 2 của chiến dịch bắt đầu từ ngày 30/3 đến
30/4, tiến công vào tập đoàn cứ điểm phía Đông, gồm các ngọn đồi C1, E, D,
A1. Trong đợt tiến công lần 2, một thời gian biểu mới được áp dụng cho bộ đội
là ngủ ngày, đánh suốt đêm. Việt Minh dùng chiến thuật vây lấn bằng hệ thống
giao thông hào dần bao vây, siết chặt, đào hào cắt ngang cả sân bay, vào tận
chân lô cốt cố thủ của địch.
Đây là đợt tiến công gay go, quyết liệt, hai
bên giành nhau từng tấc đất, giao thông hào. Cả hai bên đều bị thiệt hại
lớn. Sau một tháng chiến đấu, Việt Minh làm chủ nhiều cứ điểm, pháo cao xạ 37
mm của Việt Minh ngày càng tiến sâu vào trận địa.
Quân Pháp ngày càng thất thế trên chiến trường Điện Biên Phủ, phải chờ tiếp viện
của Mỹ. Mỗi ngày quân Pháp ở đây cần 295 tấn hàng các
loại nhưng chỉ máy bay chỉ tiếp viện tối đa 175 tấn,
nhưng 15% số này rơi vào vùng chiếm đóng của Việt Minh. Đói khát, mùa mưa, hầm
hào lầy lội, quân lính chết không chỗ chôn, sức khỏe kém, bệnh dịch...tình cảnh quân Pháp khó khăn đến cùng cực.
Thừa thắng xông lên, quân đội Việt Nam mở đợt
tấn công lần 3, từ ngày 1/5 đến 7/5, Việt Minh
đánh chiếm các cứ điểm còn lại. Riêng đồi A1, cứ điểm được xây dựng kiên cố
nhất đã tiến hành tới 4 đợt tiến công nhưng chỉ chiếm được nửa quả đồi. Đêm
6/5, quân đội Việt Nam phải dùng thuốc nổ bí mật phá sập hệ thống hầm ngầm,
chiếm được quả đồi.
17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ "Quyết
chiến quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên
nóc hầm tướng De Castries.
Tướng De Castries và toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải
ra hàng. Sau này De Castries - người từng theo học Trường Quân sự Saint Cyr nổi
tiếng thế giới - đã thốt lên rằng: "Điều làm tôi hết
sức ngạc nhiên là không biết Tướng Võ Nguyên
Giáp đã tốt nghiệp từ những trường, học viện võ bị
cao cấp nào".
Toàn bộ 16.000 lính Pháp ở tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoặc bắt sau khi kết thúc chiến dịch.
Sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, ngày
8/5/1954, Hội nghị Geneva bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương.
Đại diện cho Tổng tư lệnh quân đội Việt Nam,
ông Tạ Quang Bửu, ký hiệp định đình chiến năm 1954.
Thiếu tướng Delteil thay mặt Bộ Tổng
tư lệnh Quân đội liên hiệp Pháp ở Đông Dương ký bản
hiệp định đình chiến ở Việt Nam và Lào ở Hội nghị Geneva.
Sau hội nghị này, Pháp công nhận quyền tự do,
thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam
và chấm dứt chế độ thực dân ở các nước này. Các nhà phân tích cho rằng có nhiều
nguyên nhân làm nên thắng lợi lịch sử ở Điện Biên Phủ, và chắc chắn trong đó
có sự khinh địch của liên quân Pháp - Mỹ. Việt Nam đã làm nên chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu" chính từ trong thế yếu ấy
Nhan đề : Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 qua ảnh
Tác giả: Thu Thủy
Nơi xuất bản: An ninh tiền tệ và
truyền thông
Thời gian xuất bản: 21/ 12/ 2014
Địa chỉ: http://antt.vn/chien-dich-dien-bien-phu-tren-khong-nam-1972-qua-anh-015519.html
Chiến
dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 qua ảnh
ANTT.VN – Trong chiến dịch 12 ngày đêm,
quân và dân Hà Nội đã hạ gục nhiều máy bay B52 của Mỹ và giành thắng lợi. Chiến
thắng “Điện Biên Phủ trên không” được ví như một mốc son của chàng tí hon
đánh bại người khổng lồ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không
Tháng 10/1972, theo thỏa thuận, lẽ ra giữa Việt Nam và Mỹ ra
thỏa thuận chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tuy nhiên, phía
Mỹ đã bội ước, đưa máy bay chiến lược B52 đến ném bom thủ đô Hà Nội và Hải
Phòng. Tổng thống Nickson có kế hoạch dùng sức mạnh máy bay B52, con át chủ
bài của không lực Hoa Kỳ “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, hòng
buộc phía Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện áp đặt của họ.
18/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh tiến hành cuộc tập
kích đường không chiến lược vào miền Bắc Việt Nam với tên gọi “Chiến dịch
Linebacker II”. Các pháo đài bay B52 mang hàng ngàn tấn bom bắn phá cùng sự hỗ
trợ của 5 tàu sân bay mở cuộc tấn công.
Siêu pháo đài bay B52 của quân đội Mỹ
Ngay đêm đầu của Chiến dịch lập kích đường
không chiến lược, không quân Mỹ đã ồ ạt dội bom xuống các sân bay của ta trên
miền Bắc và nhiều khu vực của Hà Nội. Trong chiến dịch 12 ngày đêm không quân
Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B-52 đánh phá miền Bắc
Những hố bom trên mặt đất do B52 rải thảm
Trong 12 ngày đêm, từ 18/12 đến 29/12/2072, toàn bộ lực lượng
200 máy bay B52 của Mỹ ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á đã không kích Hà Nội
gây nên những thiệt hại nặng nề cho nhân dân thủ đô tại bệnh viện Bạch Mai,
phố Khâm Thiên, làng hoa Ngọc Hà… Nhưng Hà Nội không khuất phục, kiên cường
chống trả sức. Quân và dân Hà Nội đã hạ gục nhiều máy bay B52 của Mỹ và giành
thắng lợi.
B52 bị thiêu cháy ngay trong đêm đầu chiến dịch
Xác máy bay B52
Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B52 của Mỹ
vào Hà Nội, Hải Phòng kéo dài 12 ngày, đêm đã bị thất bại hoàn toàn.
Phi công Mỹ bị quân ta bắt sống
Trong 12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên
không" quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy
bay B52, 5 máy bay F111 và 42 máy bay chiến thuật khác.
Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch "Điện Biên
Phủ trên không", đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt trong suốt
8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đây là cuộc đọ sức quyết liệt
nhất từ trước tới nay. Nghệ thuật tác chiến phòng không hiệp đồng chiến đấu,
quân binh chủng của bộ đội ta đã chứng tỏ sức mạnh tổng hợp của lực lượng
phòng không ba thứ quân mà nòng cốt là bộ đội Phòng không - Không quân.
Ký ức đau thương
2h38 ngày 22/12, bệnh viện Bạch Mai,
trung tâm y tế lớn nhất miền Bắc, cũng bị B52 Mỹ dội bom. Tòa nhà chính của bệnh
viện đổ sập, đè lên những căn hầm, trong đó có rất nhiều bệnh nhân và nhân
viên y tế đang ẩn nấp.Trong sân bệnh viện Bạch Mai có tấm bia mang chữ
"Căm thù" để ghi nhớ về thời bom đạn này.
Đêm 26/12/1972, 30 máy bay B52 ném bom rải
thảm xuống đường phố Khâm Thiên, con phố đông đúc của trung tâm thành phố. Cả
17 khối phố bị thiệt hại, trong đó khối 44 đến 47 hầu như bị hủy diệt hoàn
toàn. Nhà trẻ, mẫu giáo, cửa hàng lương thực, thực phẩm, đình Tương Thuận, di
tích lịch sử, rạp hát, nhiều cơ sở sản xuất cùng hàng nghìn nhà dân bị sập đổ.
Phố Khâm Thiên sau trận rải thảm B52 của Mỹ
Trận bom ấy đã làm chết 278 người, trong
đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em, làm cho 178 cháu trở thành mồ côi và
290 người bị thương. Ngôi nhà số 51 phố Khâm Thiên chi còn là một hố bom, bảy
người sống trong ngôi nhà này không còn ai sống sót. Mảnh đất này trở thành một
đài tưởng niệm với một tấm bia mang dòng chữ “Khâm Thiên khắc sâu căm thù giặc
Mỹ” và một bức tượng bằng đồng tạc hình một phụ nữ bế trên tay một đứa trẻ đã
chết vì bom Mỹ.
Tượng đài tưởng niệm những nạn nhân bom B52 ở
phố Khâm Thiên
Nhan đề : Giải bí mật
tình báo trong trận Ấp Bắc
Tác giả: Trần Vũ
Nơi xuất bản: Người đưa tin
Thời gian xuất bản: 5/
11/ 2014
Địa chỉ:
http://www.nguoiduatin.vn/giai-bi-mat-tinh-bao-trong-tran-ap-bac-a160863.html
Giải
bí mật tình báo trong trận Ấp Bắc
VỚI TRẬN ẤP BẮC, CHIẾN LƯỢC CHIẾN
TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ ĐỨNG TRÊN BỜ VỰC PHÁ SẢN NHƯNG PHẢI NHIỀU NĂM SAU MỸ MỚI
LÝ GIẢI ĐƯỢC VÌ SAO NHỮNG PHƯƠNG THỨC CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI CỦA HỌ LẠI NHANH
CHÓNG BỊ ĐỐI PHƯƠNG VÔ HIỆU HÓA.
Giữa năm 1961, người Mỹ bắt đầu đưa vào thực hiện chiến lược
chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam. Nội dung chính của chiến lược này
được gói gọn vào công thức: cố vấn và vũ khí Mỹ cộng với quân đội Việt Nam Cộng
hòa (VNCH).
Để thực hiện chiến lược, Mỹ đã trang bị cho VNCH nhiều xe
tăng, máy bay và các vũ khí khác để tăng sức cơ động và hỏa lực. Cố vấn Mỹ được
triển khai đến từng đại đội bộ binh.
CHIẾN THUẬT TRỰC THĂNG VẬN ĐƯỢC QUÂN
MỸ VÀ VNCH SỬ DỤNG PHỔ BIẾN TRONG SUỐT CUỘC CHIẾN Ở VIỆT NAM. ẢNH MINH HỌA.
Với tiền đầu tư của Mỹ, quân đội VNCH tăng lên hơn 300.000
trong đó có 200.000 là quân chủ lực cơ động. Một số lượng đáng kể máy bay và
xe tăng, thiết giáp cũng được Mỹ chuyển giao cho VNCH.
Với lực lượng đông lại được nhiều vũ khí hiện đại hỗ trợ,
trong năm 1962, quân đội VNCH đã triển khai gần 4000 cuộc hành quân càn quét
để phục vụ cho chương trình ấp chiến lược và gây nhiều bối rối cho Quân Giải
phóng. Tuy nhiên, trận đánh ở Ấp Bắc đã tạo ra một bước ngoặt trong cuộc đối
đầu chiến thuật giữa hai bên.
Trận Ấp Bắc
Theo Wikipedia, ngày 8/1/1963, quân đội VNCH được lệnh hành
quân tấn công vào Ấp Bắc – một địa điểm ở tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang)
cách Sài Gòn 65 km về phía tây nam. Còn theo cuốn Điệp viên hoàn hảo thì trận
đánh diễn ra vào ngày 28/12/1962. Lúc đó Sư đoàn 7 quân đội VNCH đóng quân tại
đồng bằng sông Cửu Long nhận được chỉ thị phải lùng bắt một điện đài của các
lực lượng Quân Giải phóng đang hoạt động gần làng Ấp Bắc.Tin tình báo cũng
nói đài này đang được một đơn vị du kích với khoảng 120 người canh gác bảo vệ
đêm ngày.
John Paul Vann lúc đó là cố vấn cao cấp cho Sư đoàn 7 rất hứng
thú với thông tin này bởi ông ta đang nóng lòng muốn có một trận giao chiến với
lực lượng cách mạng để xem thực lực đối phương cũng như khả năng của quân đội
VNCH sau khi tiếp thu các chiến thuật của Mỹ.
Phía VNCH đã huy động vào trận đánh 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 7
cùng 2 tiểu đoàn bảo an và 1 chi đoàn thiết giáp gồm 13 xe M-113 và 3 đại đội
bộ binh. Ngoài ra còn có 8 máy bay tiêm kích, 20 trực thăng đổ quân và vũ
trang, 11 máy bay quan sát và vận tải, 13 tàu xuồng các loại và 1 tiểu đoàn
pháo binh. Tổng quân số phía VNCH có gần 1800 người do cố vấn Mỹ chỉ huy.
Về phía Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng có 2 đại đội bộ
binh và khoảng 30 du kích Ấp Bắc với hỏa lực chi viện là 1 khẩu súng cối
60mm.
Diễn biến trận đánh được cuốn Điệp viên hoàn hảo mô tả như
sau: Ngay sau khi trận đánh mở màn, phía quân đội VNCH nhanh chóng bị thương
vong, buộc các chỉ huy phải gọi thêm quân tiếp viện từ căn cứ Tân Hiệp gần
đó. Mười chiếc máy bay trực thăng Shawnee và năm chiếc máy bay trực thăng kiểu
mới Huey, biệt danh là súng ngắn bay, được huy động nhằm thẳng hướng Ấp Bắc
bay tới.
Khi những chiếc trực thăng này tiến vào Ấp Bắc, bẫy đã được
giăng chờ sẵn. Bất ngờ, hàng loạt đạn từ dưới những rặng cây ven đê bắn lên
ào ạt. Chỉ trong mấy phút đầu, mười bốn trong số mười lăm chiếc trực thăng bị
trúng đạn và bốn chiếc bị rơi trong đó có một chiếc Huey và ba lính Mỹ bị thiệt
mạng. Phía VNCH vẫn còn cơ hội để thay đổi thế trận vì Quân Giải phóng đã bị
bao vây. Phía Quân Giải phóng chỉ còn mỗi một đường thoát ra hướng Đông, đó
là cánh đồng lúa.
John Paul Vann bèn gọi thêm xe bọc thép đến tiếp viện, nhưng
Ngô Đình Diệm đã ra lệnh tại chỗ rằng không ai được vào trận đánh đó, nếu
không có sự chấp thuận trực tiếp của Sài Gòn. Ngô Đình Diệm còn chỉ thị cho
các tướng lĩnh chỉ huy các Quân đoàn, Sư đoàn phải giữ được thương vong luôn ở
mức thấp.
Tất cả những ai không tuân theo chỉ thị này sẽ không được đề bạt.
Chiếc máy bay trực thăng thứ năm bị bắn rơi ở Ấp Bắc là chiếc bị trúng đạn
khi đang cố gắng cứu hộ. Chỉ huy của quân đội VNCH tại trận Ấp Bắc đã không
tuân theo chỉ thị của cố vấn Mỹ John Paul Vann trong việc chặn đường rút của
Quân Giải phóng. Cuối cùng, khi màn đêm buông xuống, toàn bộ Quân Giải phóng
đã rút hết ra ngoài”.
NHÀ BÁO PHẠM XUÂN ẨN TRONG MỘT CHUYẾN
ĐI THEO TƯỚNG MỸ THỊ SÁT CHIẾN TRƯỜNG. ÔNG ẨN LÀ NGƯỜI NGẬM THUỐC LÁ VÀ ĐANG
GHI CHÉP.
Theo Wikipedia, trong suốt 1 ngày chiến đấu, lực lượng Quân Giải
phóng đã đẩy lùi 5 đợt tiến công với chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận
và thậm chí cả nhảy dù đường không của đối phương. Kết quả trận đánh là gần
200 lính VNCH thương vong trong đó có 3 người Mỹ bị giết và 16 người khác bị
thương. Phía Quân Giải phóng chỉ có 18 người hy sinh. Điều này cũng được nhà
báo Mỹ Neil Sheehan xác nhận trong một bài báo của ông: “Với vũ khí hạng nhẹ,
Việt Cộng đã gây gấp 4 lần thiệt hại cho họ, giết được khoảng 80 lính Sài
Gòn, làm bị thương hơn 100, ba người Mỹ chết và 8 người khác bị thương, 5 chiếc
trực thăng bị bắn hạ”.
Sau trận đánh, mặc dù quân đội VNCH thiệt hại nhiều nhưng vẫn
tuyên bố chiến thắng vì họ lý giải mục đích của họ là tiêu diệt cái điện đài
thì họ đã làm được. Nhưng xét về ý nghĩa chiến lược thì trận đánh chứng tỏ
quân đội VNCH mặc dù được trang bị vũ khí tốt hơn và sử dụng chiến thuật hiện
đại, tinh vi nhưng vẫn chưa đủ sức để đối đầu với Quân Giải phóng. Điều đó
cũng có nghĩa là toàn bộ chiến lược chiến tranh đặc biệt với công thức vũ khí
và cố vấn Mỹ cộng với quân đội VNCH đã bước tới bờ vực phá sản.
Vai trò quan trọng của Phạm Xuân Ẩn
Sau trận Ấp Bắc rất lâu, đến tận khi cuộc chiến đã kết thúc,
người ta mới biết rằng trong trận Ấp Bắc có 2 người được thưởng huân chương
là người chỉ huy trận đánh và Phạm Xuân Ẩn – vị tướng tình báo huyền thoại của
Việt Nam. Ông Phạm Xuân Ẩn đã có vai trò như thế nào?
Trong cuốn sách Điệp viên hoàn hảo, ông tiết lộ với tác giả cuốn
sách rằng chính ông là người đã cung cấp các tài liệu để Quân Giải phóng năm
được thủ đoạn chiến tranh đặc biệt của Mỹ và từ đó mà đề ra được chiến thuật
đối phó. Ông nói: “Tôi gửi cho họ những phân tích của mình, người khác quyết
định phương thức và địa điểm để tổ chức trận đánh”.
Thật vậy, nhờ những tài liệu mà ông Ẩn gửi ra, quân ta đã
nghiên cứu và đề ra cách đối phó với chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận
của Mỹ.
Trước trận Ấp Bắc vài tuần, Quân Giải phóng đã tổ chức một cuộc
diễn tập ở Đồng Tháp Mười với các mô hình trực thăng của Mỹ được tạo bằng bìa
cứng gắn trên cột bằng tre ở nhiều tư thế bay khác nhau để tính toán tầm bắn
hiệu quả và cách bắn. Kết quả của quá trình luyện tập đó đã được thể hiện
trong trận Ấp Bắc ngay sau đó với 5 trực thăng Mỹ bị bắn rụng.
Đánh giá về vai trò của Phạm Xuân Ẩn với chiến thắng Ấp Bắc,
ông Mười Nho, một chỉ huy trực tiếp của ông Ẩn nói rằng trong năm 1962, Phạm
Xuân Ẩn đã gửi ra chiến khu 24 cuộn phim về toàn bộ các kế hoạch liên quan đến
chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Ông Mười Nho khẳng định: “Sự hiểu biết
về kẻ thù mà những tài liệu này cung cấp đã giúp cho chúng tôi chuẩn bị các kế
hoạch đối phó với chiến lược của kẻ thù… Sự thất bại hoàn toàn của địch trong
trận Ấp Bắc đã buộc Mỹ phải từ bỏ Chiến tranh đặc biệt để đi tìm kiếm một chiến
lược mới”
Nhan đề : Kháng chiến chống quân Tống lần 1 thắng lợi
Tác giả: Nguyễn Thúy
Nơi xuất bản: Bảo tàng lịch sử
Quốc gia
Thời gian xuất bản: 12/3/2014
Địa chỉ:
http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Theo-dong-lich-su/2014/03/3A923E26/
Mùa xuân năm 981 – Kháng
chiến chống quân Tống lần 1 thắng lợi
Năm 970, sau khi ổn định việc xây dựng triều đình mới, Đinh
Bộ Lĩnh cử sứ bộ sang nhà Tống giao hảo. Các năm 972, 973, vua Đinh lại cử
Đinh Liễn làm Chánh sứ sang Tống cầu phong. Vua Tống đã sai sứ sang phong
Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận vương và phong Đinh Liễn làm Tĩnh hải Tiết độ
sứ, An Nam đô hộ.
Quan hệ Việt- Tống diễn ra tốt đẹp. Cuối năm 979, hai cha con
Đinh Bộ Lĩnh- Đinh Liễn bị ám sát. Nội bộ triều đình lục đục, vua mới còn nhỏ.
Nhà Tống nhân tình hình mâu thuẫn trong nội bộ vương triều Đinh, ráo riết chuẩn
bị xâm lược Đại Việt, nhà Tống vội vàng chuẩn bị đem quân sang xâm lược nước
ta. Trước tình hình đó, triều đình đã tôn Lê Hoàn làm vua, Dương thái hậu đã
“lấy áo long cổn khoác lên mình Lê Hoàn, xin lên ngôi” (Việt sử lược).
Hoàng đế Lê Đại Hành (980-1005).
Lê Hoàn sinh năm Tân Sửu (941) tại làng Trung Lập, Châu Ái
(nay làng này thuộc Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Thuở nhỏ, vì gia đình nghèo,
Lê Hoàn đi ở và làm con nuôi. Sau đó, ông theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn Mười
hai sứ quân. Nhờ có tài, lại được Đinh Bộ Lĩnh tin tưởng, ông thăng tiến rất
nhanh. Dưới triều Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn giữ chức Thập Đạo Tướng quân, tức
là chức võ quan cao nhất lúc bấy giờ.
Lê Hoàn lên ngôi, xưng Hoàng đế (năm 980) lập ra nhà Tiền Lê
và xây dựng chính quyền mới theo thể chế quân chủ. Đứng đầu nhà nước là Hoàng
đế nắm toàn bộ quyền hành. Tổ chức nhà nước thời Lê Hoàn so với thời Khúc,
Ngô, Đinh từng bước được kiện toàn nhất là ở triều đình trung ương, trở thành
một chính quyền độc lập tự chủ, thể hiện chủ quyền quốc gia của dân tộc ta bấy
giờ.
Mùa thu năm 980, lợi dụng tình hình nước ta có khó khăn, nhà Tống
một mặt điều động một đạo quân do tướng Hầu Nhân Bảo cầm đầu kéo vào xâm lược
nước ta, mặt khác sai Lư Đa Tốn đưa thư sang đe dọa.
Lê Hoàn đã huy động nhân dân chuẩn bị kháng chiến. Mùa xuân
năm 981, quân xâm lược do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ chỉ huy ồ
ạt kéo vào Lạng Sơn, đồng thời một cánh quân khác do Lưu Trừng, Giả Thực chỉ
huy theo đường thủy tiến vào phía cửa sông Bạch Đằng.
Lược đồ cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất.
Lê Hoàn trước hết cho quân chặn đường thủy, đội quân của Lưu
Trừng tiến vào sông Bạch Đằng, vấp ngay sự kháng cự của quân ta, phải chiến đấu
vô cùng vất vả. Những ngày đầu, thế của địch rất mạnh, nhiều chiến thuyền của
ta bị địch cướp, hơn một ngàn binh sĩ phải hy sinh. Những cọc đóng trên sông
Bạch Đằng không phát huy được tác dụng như thời kỳ của Ngô Quyền, nhưng cũng
gây cho địch rất nhiều trở ngại. Mặc dù chúng ta có bị thương tổn, nhưng Lê Hoàn
vẫn kiên trì, chỉ huy quân sĩ, dựa vào thế hiểm của sông núi Bạch Đằng, để cầm
chân quân giặc. Trận đánh kéo dài suốt 2 tháng (từ tháng 2 đến tháng 4 năm
981), Lưu Trừng mới phá nổi vòng vây để tiến lên phía Bắc, hội với các đạo
quân khác. Nhưng cũng chính thời gian kéo dài ấy, lại làm cho các đạo quân Tống
thêm lúng túng, co cụm lại để chờ nhau mà không thể mở rộng diện tấn công.
Bãi cọc trên sông Bạch Đằng, nơi xảy ra trận thủy chiến
giữa quân và dân Đại Cồ Việt với quân Tống năm 981 (Ảnh minh họa).
Hầu Nhân Bảo tiến đến Ngân Sơn, vào sông Cầu, chờ quân phối hợp.
Tôn Toàn Hưng lại chủ trương chờ cho được tin đạo quân của Lưu Trừng mới hành
động. Nghe ngóng tin tức của Lưu Trừng không có gì tiến triển nên hắn nhất định
án binh bất động để chờ đợi. Mãi cho đến khi Lưu Trừng phá được vòng vây, kéo
lên Lạng Sơn, lúc đó hai đội quân Tống mới hội được với nhau. Chúng đi tìm đại
quân Việt để giao chiến thì tìm không thấy, cuối cùng chỉ có cách, cùng nhau
quay về chỗ Tôn Toàn Hưng đang đóng. Ý đồ chiến lược bị bẻ gãy, thế trận liên
kết không thành, chúng không có cách gì thay đổi được tình thế. Hầu Nhân Bảo
không nhận được tin tức của hai đạo quân kia, lại tổ chức đánh xuống Bình Lỗ.
Tại đây Lê Hoàn đã bố trí trận địa mai phục lớn đợi giặc. Trận đánh diễn ra quyết
liệt với thế chủ động của ta tại vùng Phù Lỗ (Sóc Sơn, Hà Nội). Quân Tống đại
bại, bị tiêu diệt phần lớn, Hầu Nhân Bảo cũng bị chém chết tại trận. Đạo quân
của Tôn Toàn Hưng và Trần Khâm Tộ nghe được tin hai đạo quân bên phải, bên
trái đều bị đánh bại, quân giặc hoảng sợ rút chạy về nước, quá nửa cánh quân
do Trần Khâm Tộ chỉ huy chết tại trận. Vua Tống trút tất cả mọi tội lỗi lên đầu
bọn tướng tá: Lưu Trừng, Giả Thực bị giết ở chợ Ung Châu. Tôn Toàn Hưng bị bắt
về triều hạ ngục rồi cũng bị giết. Các tướng giặc Quách Quân Biện, Triệu Phụng
Huân đều bị bắt sống. Cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược do Lê Hoàn chỉ huy
đã thắng lợi vẻ vang.
Đền thờ Lê Hoàn ở xã Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Thắng lợi của Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Tống diễn ra nhanh chóng và thực sự to lớn. Chiến thắng đó đã làm nức lòng
nhân dân cả nước, củng cố vững chắc lòng tin vào khả năng bảo vệ độc lập của
dân tộc Việt Nam. Trong quan hệ đối ngoại, nhà Tiền Lê cũng đã thi hành một
chính sách tích cực, bình đẳng, kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước, kể cả vùng biên cương. Nhà Tống buộc phải kiêng nể. Đất nước ta được
thanh bình trong gần một thế kỷ.Tên tuổi Lê Hoàn và quân tướng nhà Tiền Lê
mãi khắc sâu vào lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc của nhân
dân ta.
Nhan đề : Khu di tích khởi nghĩa Ba Tơ
Tác giả: Trang thông tin
điện tử tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Nơi xuất bản: Trang thông tin điện
tử tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Thời gian xuất bản: 5/ 10/ 2015
Địa chỉ: http://quangngai.toaan.gov.vn/portal/page/portal/taquangngai/35183331/36367528?pers_id=36367343&item_id=72652945&p_details=1
Khu di tích khởi nghĩa Ba Tơ- Xứng tầm là di tích lịch sử quốc
gia đặc biệt
Mặc dù đã được công nhận là Khu di tích lịch sử quốc gia từ
năm 1980, nhưng với tầm vóc to lớn của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ trong công cuộc
đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, UBND tỉnh đã lập hồ sơ trình Trung ương
công nhận là Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Mốc son chói lọi trong lịch sử
Trong những ngày này, Ba Tơ chuẩn bị lễ kỷ niệm 42 năm ngày giải
phóng (30.10.1972 - 30.10.2014) và tiến đến kỷ niệm 70 năm ngày khởi nghĩa Ba
Tơ (11.3.1945 - 11.3.2015). Các di tích lịch sử đã được tôn tạo, nâng cấp trở
nên tươi tắn giữa đại ngàn.
Cách đây 70 năm, cũng trong mùa đông giá lạnh, tại di
tích Lò Gạch gần Suối Năng, thị trấn Ba Tơ (tháng 12.1944), Tỉnh ủy lâm thời
Quảng Ngãi được thành lập. Sau đó, trước tình thế Nhật đảo chính Pháp
(9.3.1945), trong đêm 10.3.1945, Tỉnh ủy lâm thời đã triệu tập cuộc họp khẩn
cấp tại nhà đồng chí Trần Quý Hai và quyết định chớp thời cơ, tiến hành khởi
nghĩa giành chính quyền từng phần trong toàn tỉnh, trước hết là ở Ba Tơ. Tại
chòi canh Suối Loa vào trưa ngày 11.3.1945, Tỉnh ủy lâm thời đã quyết định
giành chính quyền tại châu lỵ Ba Tơ ngay trong đêm 11.3.1945, thành lập Ban
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và phân công nhiệm vụ cho các bộ phận tập trung chuẩn
bị khởi nghĩa.
Chiều ngày 11.3.1945, đội võ trang khởi nghĩa do đồng chí Phạm
Kiệt, Nguyễn Đôn, Nguyễn Khoách chỉ huy và được sự hỗ trợ của đông đảo đồng
bào Kinh – Thượng trong huyện đã chiếm Nha Kiểm lý và Đồn Ba Tơ, bắt sống
tên kiểm lý Bùi Danh Ngũ cùng bọn nha lại và 28 lính khố xanh.
Sáng 12.3.1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại sân vận
động Ba Tơ, UBND cách mạng lâm thời huyện Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ chính thức
ra mắt trước đông đảo quần chúng nhân dân. Bắt đầu từ đây, UBND cách mạng Ba
Tơ tuyên bố xóa bỏ bộ máy thống trị của thực dân phong kiến, thành lập chính
quyền nhân dân cách mạng huyện Ba Tơ. Ra đời còn non trẻ, ngày 14.3.1945, tại
bãi Hang Én, đội du kích Ba Tơ đã tuyên thệ “Hy sinh vì Tổ quốc”. Lời thề đó
trở thành động lực chiến đấu và chiến thắng của bao lớp cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân Quảng Ngãi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sau đó, Đội du kích Ba Tơ lùi về vùng Cơ Nhất thuộc núi Cao
Muôn xây dựng chiến khu. Đội du kích Ba Tơ từ 28 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của
đội trưởng Phạm Kiệt và chính trị viên Nguyễn Đôn đã chuyển về đồng bằng xây
dựng căn cứ tại Vĩnh Sơn và Núi Lớn, nhanh chóng phát triển thành hai đại đội
Phan Đình Phùng và Hoàng Hoa Thám. Lực lượng dần lớn mạnh xuất kích đánh Nhật
lập nên các chiến công vang dội như: Di Lăng, Xuân Phổ, Mỏ Cày, góp phần vào
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền ở Quảng Ngãi, một
trong những địa phương giành chính quyền sớm nhất trong cả nước.
Trong 7 di tích liên quan trực tiếp đến cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ,
thì trong đó có 1 điểm di tích chòi canh Suối Loa nằm ở xã Ba Động, còn lại ở
thị trấn Ba Tơ. Ngoài ra còn có 9 điểm di tích như núi Cao Muôn, khúc sông
Liêng… ghi dấu sự trưởng thành, lớn mạnh và những chiến công của Đội Du kích
Ba Tơ.
Cũng từ Đội Du kích Ba Tơ, nhiều đồng chí qua đấu tranh cách mạng
đã trở thành các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và trong Quân đội
Nhân dân Việt Nam Anh hùng, như Trung tướng Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn, Nguyễn
Chánh, Trần Quý Hai, thiếu tướng Võ Thứ...
Trân trọng giá trị di tích
Ngày 10.7.1980, Bộ Văn hóa- Thông tin đã có Quyết định số
92/QĐ- VHTT công nhận Khu di tích khởi nghĩa Ba Tơ là di tích lịch sử cấp Quốc
gia. Năm 1982, di tích khởi nghĩa Ba Tơ được đầu tư kinh phí để tu bổ, tôn tạo,
bảo tồn các địa điểm liên quan đến cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ và Đội Du kích Ba
Tơ. Địa điểm di tích sân vận động và di tích đồn Ba Tơ được chọn làm trọng điểm
bảo tồn không gian của di tích gốc, kết hợp với xây dựng nhà trưng bày bổ
sung giới thiệu về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ.
Không gian tôn tạo khu di tích khá rộng lớn trên 12.800m2, được
phân thành các khu: Đài tưởng niệm, nhà trưng bày bổ sung, nhà tiếp khách,
khu vực trồng cây ăn quả, còn lại là khu vực cây xanh, đường đi bộ và thảm cỏ.
Tại nhà trưng bày, ngành bảo tàng đã sưu tầm trưng bày gần 150 hiện vật và những
tài liệu liên quan đến đất và người Ba Tơ, cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và hoạt động
của Đội du kích Ba Tơ.
Khuôn viên Khu di tích ngày càng mở rộng, tượng đài khởi nghĩa
Ba Tơ cũng được đầu tư xây dựng mới thay thế cho tượng đài cũ. Tại sân vận động,
Quân khu 5 đã đầu tư kinh phí xây dựng biểu tượng phù điêu, nơi thành lập đội
du kích Ba Tơ và bia tưởng nhớ nơi thành lập Tiểu đoàn 19. Ngoài ra, các di
tích Lò Gạch, Sông Liêng, Nha Kiểm lý, bãi Hang Én, nhà đồng chí Trần Quý
Hai, chòi canh Suối Loa đã được phục dựng lại theo nguyên gốc. Các di tích
khác cũng đã dựng bia ghi dấu sự kiện lịch sử.
Năm 2010, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân trong thời kỳ chống Pháp cho Đội du kích Ba Tơ. Tháng 8.2013,
Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định công nhận 5 xã và thị trấn Ba Tơ thuộc
vùng An toàn khu của Trung ương ở Quảng Ngãi trong thời kỳ chống Pháp.
Với giá trị lịch sử tiêu biểu, giá trị tiên phong của cuộc Khởi
nghĩa Ba Tơ, cũng như vai trò, công lao và những cống hiến to lớn của Đội du
kích Ba Tơ, ngày 29.9.2014 huyện Ba Tơ đã đề nghị UBND tỉnh lập hồ sơ trình
Trung ương công nhận là di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt. Bởi đó là nguyện vọng
của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Ba Tơ cũng như tỉnh Quảng Ngãi, để
xứng tầm lịch sử của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ huyền thoại.
Nhan đề : Nhà Trần tiếp nối nhà Lý chấn hưng Đại Việt thế kỷ 13
Tác giả: Trần Đại Quyết
Nơi xuất bản: Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Nam Định
Thời gian xuất bản: 23/ 8/ 2012
Nhà Trần tiếp nối
nhà Lý chấn hưng Đại Việt thế kỷ 13
Trước khi tiếp nối
nhà Lý chấn hưng quốc gia Đại
Việt thế kỷ 13, các vị Thuỷ Tổ nhà Trần đã có công phò tá, giữ gìn ngôi báu của
những vị vua cuối triều Lý.
Trước khi tiếp nối
nhà Lý chấn hưng quốc gia Đại
Việt thế kỷ 13, các vị Thuỷ Tổ nhà Trần đã có công phò tá, giữ gìn ngôi báu của những vị vua cuối
triều Lý. Bài vị thờ phụng Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam đặt tại Tức Mặc - Thiên
Trường Nam Định. Hành cung Thiên Trường - Nam Định được coi là kinh đô thứ
hai triều Trần, có mối liên hệ lịch sử đặc biệt với Thăng Long - Hà Nội.
I- Cơ duyên lịch sử
Triều đại nhà Lý với những vị vua sáng
tôi hiền đã đạt tới đỉnh cao trong lịch sử dựng nước và giữ nước của quân dân Đại
Việt. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 13 cơ nghiệp nhà Lý dần dần suy vi. Đất nước vào cảnh loạn
lạc. Năm Mậu Thìn 1208, Quánh Bốc và Đoàn Thượng tranh giành
quyền lực, chống lại triều đình,
Vua Lý Cao Tông bỏ Thăng Long đưa gia quyến chạy lên Quy Hóa - Tam Nông (Phú
Thọ); Thái tử Lý Hạo Sảm chạy về vùng biển Hải Ấp (Thái Bình) ở nhờ gia đình
Trần Lý, sau đó dựa vào thế lực anh em họ Trần dẹp loạn. Trần Tự Khánh thay
cha lên Tam Nông rước vua Lý Cao Tông về kinh thành. Thái tử Sảm lấy Trần Thị Dung con
gái Trần Lý. Do có công giúp nhà Lý dẹp loạn, Trần Lý và các con của ông là
Trần Tự Khánh, Trần Thừa; cháu của ông là Trần Thủ Độ (Trần Thủ Độ là con Trần
Hoàng Nghị - em ruột Trần Thừa) được vua Lý phong tước và tin dùng.
Tháng 4 năm 1210 Lý Cao Tông mất, Lý Hạo
Sảm lên ngôi hoàng đế hiệu là Lý Huệ Tông, phong Trần Thị Dung (em gái Trần
Thừa, Trần Tự Khánh) làm chính phi, phong Trần Tự Khánh làm Phụ chính, nắm giữ
toàn bộ binh quyền, quyết định những việc trọng đại trong triều nội; Trần Thừa
làm Nội thị phán phủ, Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Dưới triều Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông, anh em họ Trần
hết lòng trung thành, bảo vệ vua Lý, ra tay dẹp loạn trong nước, hai lần đích
thân đi mời vua Lý về kinh thành tiếp
tục ngôi vua trị vì đất nước (lần thứ hai đón vua Lý Huệ Tông từ Lạng Châu -
Lạng Sơn ngày nay). Hai lần đón vua xa giá về kinh đều do Trần Tự Khánh chỉ
huy. Việc nhà Trần thay thế nhà Lý, sau này có ý kiến chưa căn cứ vào bối
cảnh lịch sử cụ thể. Nếu họ Trần có ý đồ cướp ngôi vua thì hai lần vua Lý bỏ
kinh thành là thời điểm thuận lợi nhất để hành sự!? Nếu Trần Lý và anh em họ
Trần trong thời gian dài cuối triều Lý không ra tay phò tá thì rất có thể triều
Lý đã không thể kéo dài thêm tới hàng chục năm. Cũng vì sự nghiệp phò tá nhà
Lý, năm 1212 Trần Lý đã hy sinh, và sau đó, năm 1223 con ông là Trần Tự Khánh
cũng hy sinh.
Chính quyền nhà Lý thời Lý Huệ Tông
ngày càng suy yếu tận gốc rễ, bộ máy quan lại chuyên quyền nhũng nhiễu, quan
đại thần nhà Lý không có người hiền tài, vua không ra vua, quan
chẳng ra quan; trăm họ lầm than. Vua Lý Huệ Tông mắc bệnh trọng, không có con trai kế nghiệp,
phong công chúa Phật Kim - Chiêu Thánh làm Thái tử. Tháng 10 năm Giáp Thân
(1224) truyền ngôi cho Lý Chiêu Hoàng rồi đi tu ở chùa Chân Giáo. Việc truyền
ngôi cho Lý Chiêu Hoàng, thực chất Lý Huệ Tông đã từ bỏ ngai vàng, bỏ mặc đất
nước đang lúc loạn lạc. Vị nữ chúa mới 8 tuổi đầu không thể đảm đương nổi
công việc giang sơn trăm bề nặng gánh. Trong bối cảnh đó, sự kiện chuyển giao
chính quyền từ nhà Lý sang nhà Trần như mối cơ duyên của lịch sử Đại Việt.
“Chiếu nhường ngôi” của Lý
Chiêu Hoàng (vua thứ 9 triều Lý) ban bố ngày 21 tháng 10 Ất Dậu, tức ngày
22-11-1225, viết: “…Trẫm là nữ chúa, tài đức đều hèn, không người phò tá, giặc cướp nổi lên như
ong, đâu có thể gìn
giữ ngôi trời quá nặng”… “Nay
trẫm một mình suy đi tính lại, duy có Trần Cảnh là người văn chất rỡ
ràng, thật đúng tư cách bậc hiền nhân quân tử, uy nghi thận trọng, có phong
tư của bậc văn võ thánh thần…”.
Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu 1225 Trần Cảnh
lên ngôi mở đầu vương triều Trần. Kế tục thành tựu Đại Việt triều Lý, triều
Trần quy tụ bách tính, thu phục hiền tài, chấn hưng Đại Việt thành
quốc gia hùng mạnh, có nền văn trị rực rỡ, pháp quyền công minh, kinh tế phát
triển, đời sống nhân dân no ấm. Triều Trần trải qua 175 năm (1225 - 1400) có
12 đời vua và thời hậu Trần 7 năm (1407-1414) có 2 đời vua, tất cả là 182 năm
với 14 đời vua. Thời thịnh trị, vương triều Trần đã sản sinh ra các vị vua anh minh và
anh hùng: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông…
cùng nhiều nhân tài trác việt, công danh lừng lẫy cả về văn trị, võ công, và
lòng trung quân ái quốc. Hào khí Đông A - hạt nhân sức mạnh Đại Việt thế kỷ
13 được dầy công hun đúc: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức”. Nửa,
cuối thế kỷ 13, nhà Trần lãnh
đạo quân dân Đại Việt 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông - Đế quốc phong kiến
được coi là mạnh nhất thế giới đương thời.
Hồ Chủ tịch trong lịch sử diễn ca, đã
khẳng định: “Thời Trần văn giỏi, võ nhiều. Người dân thịnh vượng,
trong triều hiển minh”.
II- Các vị Thuỷ Tổ
họ Trần Việt Nam
và Hành cung Thiên
Trường
Đại Việt Sử ký toàn thư, chép: “Tổ
tiên nhà Trần là Trần Kinh đến ở hương Tức Mặc phủ Thiên Trường sinh ra Hấp,
Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa”. Như vậy Thuỷ Tổ họ
Trần Việt Nam là Trần Kinh. Nhưng quốc sử và các tài liệu thời Trần đều không
ghi chép đầy đủ ngày tháng năm sinh, năm mất của vị Thuỷ Tổ Trần Kinh. Cũng
theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào đời vua Trần
Anh Tông (vua thứ tư triều Trần), năm Nhâm Tý, Hưng Long thứ 20, truy tôn Ý vương Trần Kinh làm Mục tổ Hoàng đế - vị Tổ thứ Nhất;
truy tôn Cung vương Trần Hấp làm Ninh tổ Hoàng đế - vị Tổ thứ Hai; truy tôn
Chiêu vương Trần Lý làm Nguyên tổ
Hoàng đế - vị Tổ thứ Ba; Trần Thừa làm Thái tổ Hoàng đế - vị Tổ thứ Tư. Trần
Thừa sinh năm Giáp Thìn 1184 là con trưởng của Nguyên tổ Trần Lý, anh ruột Trần Tự Khánh và Linh từ Quốc
Mẫu Trần Thị Dung.
Mục tổ Trần Kinh ở hương Tức Mặc, sinh
ra Trần Hấp, Trần Hấp sang định cư ở Hải Ấp (Đông Hưng, Thái Bình ngày nay) sinh ra Trần Lý, Trần Lý
sinh ra Trần Thừa. Thái Tổ Trần Thừa sinh ra Trần Cảnh - vị vua đầu tiên triều
Trần. Trần Thừa và anh em họ Trần do có công lao phò tá giúp vua nhà Lý dẹp
loạn, khôi phục kinh thành Thăng Long, năm Bính Tý 1216 được vua Lý Huệ Tông
phong làm Nội thị phán phủ, đến năm Quý Mùi 1223 sắc phong Thái uý phụ chính.
Trần Thừa làm quan triều Lý, làm Thái thượng hoàng triều
Trần, mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1234.
Các nhà nghiên cứu sử học Việt Nam và
Ban Liên lạc họ Trần Việt Nam với nhiều cứ liệu lịch sử, khoa học, thống nhất
lấy ngày 18 tháng Giêng hàng năm làm ngày Giỗ Tổ họ Trần Việt Nam, tri ân Tổ
tiên - Tri ân một vương triều đã có những đóng góp bất hủ vào lịch sử dựng nước, giữ nước vẻ
vang của dân tộc Việt Nam với nhiều nhân tài trác việt gắn liền với võ công, văn trị hiển hách, lưu giữ ngàn
thu.
Năm Kỷ Hợi (1239), tháng Giêng, Phùng
Tá Chu được phong chức Nhập nội Thái phó về Tức Mặc xây dựng nhà cửa cung điện.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Nhâm Tuất (Thiên Long) năm
1262, mùa Xuân, tháng Hai, Thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc, ban tiệc lớn,
đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang; lại xây
riêng một cung khác cho vua nối ngôi ngự khi về chầu, gọi là Trùng Hoa”.
Thời Trần, Hành cung Thiên Trường (Nam Định) có mối quan hệ lịch sử đặc biệt
với Thăng Long (Hà Nội), có vị trí như kinh đô thứ hai trong thời bình và khi chống giặc ngoại xâm. Trong
dịp Lễ hội Trần Nhâm Thìn 2012, tỉnh Nam Định tổ chức Đại lễ kỷ niệm 750 năm
Thiên Trường - Nam Định (1262-2012).
Hương Tức Mặc, sau thành phủ Thiên Trường
thuộc tỉnh Nam Định là quê hương của dòng họ Trần Việt Nam. Theo “Văn bia Nam Trạch miếu bút ký”,
họ Trần dựng Miếu thờ Tổ tiên vào năm 1239 ở làng Tức Mặc. Như vậy, Đền thờ các
vị Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam được lập vào năm 1239 ở làng Tức Mặc - Thiên Trường
(Nam Định). Thế kỷ XV, Đền Trần và các công trình kiến trúc ở Thiên Trường bị giặc Minh
tàn phá, huỷ hoại. Năm 1694 (đời vua Lê Hy Tông) Đền thờ Thuỷ tổ họ Trần ở
Thiên Trường được dựng bằng gỗ lim; năm 1705, chính thức gọi là Trần Miếu. Đền
Trần ở Thiên Trường hiện nay được trùng tu lớn vào thời Nguyễn. Chính lễ khai
ấn thời Trần hàng năm được cử hành đêm 14 rạng ngày 15 tháng giêng tại Đền Trần
Thiên Trường, nơi thờ tự bài vị Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam và các vua Trần. Thượng
hoàng Trần Thái Tông năm 1258, sau khi nhường ngôi cho Thái tử Hoảng (Trần
Thánh Tông), năm 1262 về ở cung Trùng Quang - Phủ Thiên Trường nơi có Tiên Miếu
thờ các vị Thuỷ Tổ của dòng
họ. Các vua Trần kế tiếp, sau khi nhường ngôi, đều về ngự tại cung Trùng
Quang - Thiên Trường, nơi quê cha đất tổ.
Hành cung Thiên Trường xưa, Đền thờ
Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam tại Tức Mặc - Nam Định nay, cùng nhiều chứng tích,
di vật được phát hiện tại Khu Di tích Văn hóa Trần Nam Định, gắn liền với một
triều đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc, đang được đề nghị Nhà nước xếp hạng
di sản cấp quốc gia đặc biệt.
Nhan đề : Nhớ về Đồng Xoài những năm “ rực lửa chiến công”
Tác giả: Hà Thanh
Nơi xuất bản: Bình Phuớc Online
Thời gian xuất bản: 26/ 12/ 2014
Địa chỉ:
http://baobinhphuoc.com.vn/Content/nho-ve-dong-xoai-nhung-nam-ruc-lua-chien-cong-36926
Nhớ về Đồng Xoài những năm “rực
lửa chiến công”
BP - Đồng Xoài được giải phóng đến nay vừa tròn 40 năm. Thế
nhưng, với người dân Đồng Xoài, mốc lịch sử đặc biệt để làm nên “Đồng Xoài rực
lửa” là ngày 9-6-1965. Đó là ngày tháng mà lịch sử mãi còn ghi những trận chiến
đấu oanh liệt của quân và dân Đồng Xoài anh hùng, làm phá sản hoàn toàn Chiến
tranh Đặc biệt của Mỹ trên chiến trường miền Nam.
Pháo binh ta nã đạn vào Chi khu Đồng Xoài ngày 25-12-1974 - Ảnh
tư liệu
Hòa trong niềm vui chung của toàn Đảng, toàn dân, những cựu
chiến binh đã từng sống, chiến đấu để làm nên một “Đồng Xoài rực lửa”, giải
phóng hoàn toàn Chi khu Đồng Xoài đều bồi hồi nhớ lại những ngày tháng không
thể nào quên.
“ĐỒNG XOÀI RỰC LỬA”
Đồng Xoài, trước ngày giải phóng gọi là Đôn Luân, nằm ở vị trí
chiến lược rất quan trọng. Vì vậy, Mỹ - ngụy xây dựng Chi khu quân sự Đồng
Xoài với các sân bay, bãi pháo, xe tăng, công sự ngầm cố thủ, cùng với các “ấp
chiến lược” ken dày, nối liền với Chi khu quân sự Phước Long và khu “mắt thần”
rađa Bà Rá, tạo thành vành đai phòng thủ “bất khả xâm phạm” để bảo vệ Sài
Gòn. Đại tá Trương Văn Đàng, cựu chiến binh Sư đoàn 9, Quân đoàn 4 là một
trong những chiến sĩ thuộc Trung đoàn 2 trực tiếp tham gia trận đánh Chi khu
Đôn Luân ghi lại trong hồi ký: Đúng 16 giờ ngày 9-6-1965, từ vị trí tập kết
các đơn vị hành quân chiếm lĩnh trận địa. Nhiều người lính tự viết khẩu hiệu
cho riêng mình với nội dung “Quyết tử giải phóng Đồng Xoài”. Đây là trận chiến
đấu quyết liệt mà từ thủ trưởng đơn vị đến các chiến sĩ đều quyết chiếm cho bằng
được cứ điểm của địch. Cái giá ấy là hàng trăm cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy
sinh hoặc bị thương trước cửa mở để cuối cùng làm nên một “Đồng Xoài rực lửa”.
Chiến thắng này đã chứng minh tinh thần chiến đấu kiên cường dũng cảm của cán
bộ, chiến sĩ Trung đoàn 2, sau đó được mang tên Trung đoàn Đồng Xoài. Thắng lợi
của trận Đồng Xoài rất to lớn, khẳng định sức mạnh và chiến lược của các binh
đoàn chủ lực trong quá trình phát triển của chiến tranh cách mạng, đánh dấu sự
phá sản hoàn toàn Chiến tranh Đặc biệt của Mỹ trên chiến trường.
GIẢI PHÓNG ĐỒNG XOÀI
Trung tá Nguyễn Văn Vẫy
Trung tá Nguyễn Văn Vẫy, nguyên Tham mưu trưởng Huyện đội Đồng
Phú, hiện cư ngụ tại phường Tân Phú (TX. Đồng Xoài), nhớ lại những ngày tháng
chuẩn bị cho trận đánh quyết định giải phóng Đồng Xoài với những hồi ức không
thể nào quên. Ngày ấy, ông là chiến sĩ quân báo K17. Đầu năm 1974, lực lượng
quân báo bí mật đột nhập, do thám và nắm chắc tình hình báo cáo cấp trên chuẩn
bị cho trận đánh. Đến ngày 20-12-1974, các lực lượng triển khai ém quân. Đêm
25-12, tất cả các đơn vị vào vị trí. Đúng 5 giờ sáng ngày 26-12, các trận địa
pháo đồng loạt nhả đạn vào các yếu điểm của địch. Đến 9 giờ sáng quân ta đánh
cầu Nha Bích, sân bay Tà Bế, chốt Cầu Hai. Tổ của ông Vẫy tham gia đánh chốt ở
Thuận Lợi... Quân ta đồng loạt tấn công trên tất cả các mũi, địch thất bại
nhanh chóng và Chi khu Đồng Xoài được giải phóng. Ông Vẫy nói: “Trận đánh giải
phóng Đồng Xoài kết thúc nhanh gọn là nhờ công tác chuẩn bị và tổ chức tốt. Lực
lượng quân báo bí mật tiếp cận địch, nắm chắc tình hình địch. Khi nổ súng thì
đồng loạt, tiêu diệt gọn, giải phóng nhanh, bảo đảm an toàn cho dân”.
Thượng tá Trần Văn Thuần
Thượng tá Trần Văn Thuần, nguyên Phó trưởng Công an huyện Đồng
Phú, hiện cư ngụ tại phường Tân Xuân (TX. Đồng Xoài), cũng là một trong những
người lính trực tiếp tham gia trận đánh giải phóng Chi khu Đồng Xoài. Ông Thuần
kể tường tận từng vị chỉ huy, từng đơn vị được giao nhiệm vụ tiêu diệt các đồn,
bốt xung quanh Chi khu Đồng Xoài. Hồi ấy, ông Thuần là Tiểu đội trưởng, Ban
an ninh thuộc K17 Đồng Xoài. Ông Thuần cho biết, bắt đầu từ ngày 23-12-1974
quân ta đánh đồn địch ở cầu 11, rồi đánh đồn cầu 2. Sau khi các đồn bốt của địch
xung quanh chi khu bị ta tiêu diệt, địch co cụm vào chi khu. Ngày 26-12, pháo
binh của ta bắt đầu cấp tập dội lửa vào chi khu làm cho địch trở tay không kịp.
Sau hỏa lực, bộ binh của ta ào ạt tấn công, nhanh chóng giải phóng chi khu.
Ông Thuần nói: Sướng nhất trong trận đánh này là quân ta không ai hy sinh vì
chúng tôi tấn công sau khi pháo đã cấp tập băm nát căn cứ của địch. Nhưng sau
khi giải phóng phải đưa dân đến vùng an toàn. Bởi địch cho máy bay lên ném
bom hòng chiếm lại Đồng Xoài. Nhưng âm mưu của chúng đã thất bại”.
5. NƯỚC ÂU LẠC
Nhan đề : Sự ra đời của
Nhà nước
Âu Lạc
Tác giả: Báo Nhân Dân điện
tử
Nơi xuất bản: Báo
Nhân Dân điện tử
Thời gian xuất bản: 14/
4/2005
Sự ra đời của Nhà nước Âu Lạc
Người Lạc Việt và người Tây Âu vốn từ lâu đã có mối quan hệ kinh tế-văn hóa gần gũi. Thủ lĩnh của nhóm
người Tây Âu sống trên đất Văn Lang là Thục Phán. Liên minh bộ lạc Tây Âu
ngày càng mạnh lên.
Từ trước cuộc xâm lăng của quân Tần, giữa vua Hùng và họ Thục đã xảy ra một cuộc xung đột kéo dài chưa phân thắng bại. Trong bối cảnh đó, cuộc xâm lăng của quân Tần xảy ra ồ ạt. Đứng trước tình hình mới, hai bên chấm dứt xung đột, cùng chiến đấu chống ngoại xâm. Kháng chiến thắng lợi, Thục Phán với tư cách người chỉ huy chung đã được thay thế Hùng Vương làm vua, đặt tên nước mới là Âu Lạc. Quốc gia Âu Lạc ra đời khoảng đầu thế kỷ III tr.CN. Nước Âu Lạc là bước kế tục và phát triển cao hơn của nước Văn Lang và trên một phạm vi rộng lớn hơn của người Việt và người Tây Âu. Tổ chức bộ máy nhà nước và các đơn vị hành chính dưới thời Âu Lạc vẫn chưa có gì thay đổi khác với thời Văn Lang của các Vua Hùng. Đứng đầu nhà nước là Thục An Dương Vương. Dưới đó, trong triều vẫn có các Lạc hầu giúp vua cai quản đất nước. Ở các địa phương (bộ) vẫn do các Lạc tướng đứng đầu quản lý. Đơn vị hành chính cấp cơ sở vẫn là các công xã nông thôn (kẻ, chiềng, chạ). Mặc dù nước Âu Lạc tồn tại không lâu, chỉ trong khoảng từ năm 208 đến năm 179 tr.CN, nhưng về các mặt vẫn tiếp tục được phát triển trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được thời Văn Lang, nhất là trên lĩnh vực quân sự. Theo tài liệu khảo cổ thì An Dương Vương xây dựng được một đạo quân khá mạnh sử dụng thành thạo cung tên. Các loại vũ khí phong phú, đa dạng và hơn vạn mũi tên đào được ở chân thành Cổ Loa đã chứng tỏ điều đó. Âu Lạc còn có thuỷ quân và được luyện tập khá thường xuyên. Sau khi nước Âu Lạc ra đời, Thục An Dương Vương đã chọn Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) làm Kinh đô và cho xây dựng thành Cổ Loa kiên cố, trở thành trung tâm của nước Âu Lạc và là một căn cứ quân sự vững chắc, lợi hại. Thành Cổ Loa nằm ở vị trí trung tâm đất nước vàlà đầu mối của các hệ thống giao thông đường thuỷ. Ở đây có sông Hoàng chảy qua thuận lợi cho việc đi lại quanh vùng, rồi toả đi các nơi, theo sông Hồng, sông Đáy xuôi về đồng bằng rồi ra biển cả hoặc xuôi sông Cầu qua sông Thương, sông Lục Nam lên vùng rừng núi Đông Bắc v.v... Thành Cổ Loa gồm có 3 vòng thành chính khép kín (thành nội, thành trung, thành ngoại). Thành nội (vòng trong cùng) hình chữ nhật, có chu vi 1650 mét, cao khoảng 5 mét, mặt thành rộng từ 6 đến 12 mét, chân rộng từ 20 đến 30 mét. Thành nội chỉ có 1 cửa thành. Trên mặt thành có 18 ụ đất nhô ra ngoài để làm vọng gác. Những vọng gác này được đắp cao hơn mặt thành từ 1 mét đến 2 mét. Thành trung có 5 cửa. Ở đây cũng có một số ụ đất đắp cao hơn để làm vọng gác. Thành ngoại (vòng ngoài cùng) dài 8 km, cao từ 4 đến 9 mét. Chân thành rộng từ 12-20 mét. Thành có 3 cửa ra vào. Cả 3 vòng thành đều có hào ở phía ngoài. Cả ba hào được nối liền với nhau và nối với sông Hoàng để bảo đảm quanh năm đều có nước, và làm tăng thêm sự hiểm yếu của Kinh thành Cổ Loa. Giữa các vòng thành và phía ngoài thành ngoại có nhiều ụ đất và luỹ chắc chắn. Với vị trí kiên cố và lợi hại đó, thành Cổ Loa đã góp phần vào chiến thắng vẻ vang của nhân dân Âu Lạc chống các cuộc xâm lược của quân Triệu (trước năm 179 tr.CN). Quốc gia Văn Lang-Âu Lạc tồn tại trên dưới 500 năm tr.CN. Bằng sức lao động sáng tạo và đấu tranh kiên cường, bền bỉ, người Việt cổ đã xây dựng được cho mình một đất nước phát triển với nhiều thành tựu kinh tế và văn hóa làm nền tảng cho một nền văn minh bản địa đậm đà bản sắc dân tộc. Trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và kết cấu xóm làng bền chặt, cư dân Văn Lang-Âu Lạc tiến hành khai hoang, làm thuỷ lợi, chống ngoại xâm và các hoạt động khác. Cũng từ đó, người Việt cổ bấy giờ đã định hình cho mình một lối sống, cách ứng xử, tâm lý, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật, toát lên những đặc điểm của đời sống văn hóa vật chất và tinh thần đặc sắc. Về đời sống vật chất, thóc gạo là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, làm bánh chưng, bánh giầy. Nhiều tài liệu đã ghi lại sự việc trên. Sách Lĩnh nam chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Rất nhiều chiếc chõ gốm dùng để thổi xôi đã tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hóa Đông Sơn. Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang-Âu Lạc còn sử dụng các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ, rau quả. Lúc thiếu thốn người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng. Thức ăn cũng khá phong phú gồm các loại cá, tôm, cua, ốc, hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà, đậu…). Thức ăn được chế biến bằng nhiều cách khác nhau theo sở thích từng vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống…). Nghề chăn nuôi và săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn có nhiều chất đạm cho mỗi gia đình. Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm ở mỗi nhà (trâu, bò, lợn, gà, chó…). Trong số đồ ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang –Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới như vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt… Nguồn lương thực và thực phẩm của người Việt cổ thực phong phú, đa dạng, rất giàu chất bột, chất đạm và nhiều chất bổ khác, trong đó lúa gạo là chính. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, cũng là một biểu hiện của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ. Thời Hùng Vương, người ta cũng đã biết sử dụng nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ, riềng, tỏi. Trong tập quán ăn uống của người Việt cổ bấy giờ phải kể đến tục uống rượu và ăn trầu. Rượu được nhắc nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Văn Lang có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen. Dấu tích hạt cau, quả cau được tìm thấy ở Đông Sơn. Trang phục của cư dân Văn Lang- Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát triển, đầu óc thẩm mỹ và bản sắc văn hóa của người Việt cổ. Do nghề dệt rất phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông, nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có loại quấn đơn và loại quấn kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Nhiều tượng người đàn ông thổi khèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng người mặc váy dài trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu. Vào các ngày lễ hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: Có mũ lông chim, váy xoè kết bằng lông chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (Khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay, vòng ống chân bằng đá, đồng). Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Mặt khác, sự phong phú và dùng phổ biến nhiều loại đồ trang sức đẹp cũng chứng tỏ đời sống vật chất cư dân Văn Lang-Âu Lạc được nâng cao rõ rệt. Về đầu tóc của người bấy giờ có 4 kiểu: Kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và quấn tóc ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự. Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng để xõa khá phổ biến ở nam giới thời bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau. Có thể nghĩ rằng, kiểu tóc cắt ngắn buông xõa sau lưng và búi tóc cao là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người thời Văn Lang. Nhà ở có nhiều kiểu cách như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Trên trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rũ xuống như mái tranh đến tận sàn, có cầu thang lên xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó thường gọi là kẻ, chạ, chiềng. Trong sinh hoạt gia đình, các vật dụng rất phong phú gồm rất nhiều loại khác nhau như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài ra, có những đồ đựng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu v.v… Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè trên các con sông, rạch. Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu, bò, ngựa.
3. NƯỚC XÍCH QUỶ
Nhan đề : Bước đầu tìm
hiểu về Kinh Dương Vương – vị vua Thủy tố Việt Nam
Tác giả: Báo điện tử Bắc
Ninh
Nơi xuất bản: Báo
điện tử Bắc Ninh
Thời gian xuất bản: 14/
3/ 2011
Bước đầu tìm hiểu về Kinh Dương Vương
vị
vua Thủy tổ Việt Nam
Theo
truyền thuyết lịch sử và các tài liệu, thư tịch cổ: Kinh Dương Vương, huý Lộc
Tục, sinh ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (2919 TCN) mất ngày 18 tháng Giêng năm
Kỷ Sửu 2792 TCN) (1) Quê quán: Bộ tộc Dâu, xứ Vũ Ninh (nay là huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh) (2). Năm 2879 TCN, Kinh Dương Vương lập nên nhà nước Xích Quỷ, (nhà nước sơ khai đầu tiên của chúng ta).
Xích Quỷ là tên một ngôi sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên
bầu trời (Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh biên soạn, trang 168, Hàn Man
Tử hiệu đính, Trường Thi xuất bản năm 1932).
Xích
quỷ nghĩa bóng là đất nước tự chủ ở phương Nam, tự phát triển mạnh mẽ, rực rỡ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ: phía Bắc giáp Động
Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc), phía Nam giáp Hồ Tôn, Chiêm
Thành; phía Đông giáp bể Nam Hải; phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc).
Lúc đầu Vương đóng đô ở núi Ngàn Hống (hay còn gọi là Hồng Lĩnh), thuộc huyện
Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay. Sau đó, Vương dời đô về Ao Việt (Việt Trì), đền
Tiên Cát ngày nay.
ở phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì thờ
Hoàng Hậu - vợ vua Kinh Dương
Vương (Thân mẫu của Lạc Long Quân và Âu Cơ). Tên thật của mẫu là Hồng Đăng Ngạn,
hiệu Thần Long (Long Thần), tự Thanh Minh, Tên trong sắc phong là Ngọc Tinh
Thần Nữ nàng cả Đại vương, dân gian tôn là Bà Chúa Tằm, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu
sinh ngày 5 tháng 5 và mất ngày 10 tháng 10 âm lịch, mộ hiện nay vẫn còn ở
phường Tiên Cát, Việt Trì, Tượng mẫu cao 1m67 làm bằng chất liệu đá, nặng 3 tấn. Đền
Cát Tiên thờ Thuỷ tổ Quốc Mẫu đã được UBND tỉnh Phú Thọ ra
Quyết định số 2150/QĐ-PT ngày 21-7-2003 công nhận là di tích lịch sử văn hoá.
Thần
phả Á Lữ còn ghi: Lịch sử họ Hồng Bàng, Kinh Dương Vương tên là Lộc Tục dòng
dõi vua Thần Nông. Xưa kia, vào năm Nhâm
Tuất, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Sau Đế
Minh nhân đi tuần phương nam, đến núi Ngũ Tĩnh lấy con gái Vụ Tiên sinh
Vương. Vương là bậc thánh trí thông minh. Đế Minh rất yêu quý muốn
truyền ngôi cho. Vương cố nhường lại
cho anh không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi nối ngôi cai quản phương
Bắc, lại phong cho Lộc Tục là Kinh Dương Vương cai quản Phương Nam, gọi là nước
Xích Quỷ. Vương lấy con gái Động Đình Quân là Thần Long sinh ra
Lạc Long Quân.
Sử
sách còn ghi: Thần nông lấy Lữ Nương
sinh ra Đế Thừa, Đế Thừa sánh duyên cùng Đại Nương sinh ra Đế Minh. (3)
Theo
lịch sử Việt Nam: Kinh Dương
Vương là vị vua đầu tiên của nước ta (Thời Lê Thánh Tông, sử gia Ngô Sỹ Liên
chép “Kỷ Hồng Bàng thị” Tổ tiên người Việt có vua đầu gọi là Kinh Dương
Vương). Cuộc đời Đức Ngài thăng hoa, có nhiều kỷ niệm đẹp, với những chiến
công oanh liệt, vẻ vang, có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ lúc mới
sinh đến năm làm vua (2919 TCN - 2879 TCN) - Lúc nhỏ được mẹ là nàng Vụ Tiên
dạy dỗ, lúc lớn: chịu khó lặn lội khắp nơi, không ngại khó khăn gian khổ để
xây dựng mở mang gìn giữ bờ cõi giang san, dậy dân cấy lúa lập làng, chữa bệnh
v.v… được nhân dân kính trọng, Cảnh Lộc Tục sống hoà mình với dân chúng ở ấp
Phúc Thần, cảnh tỏ tình với người yêu,
cảnh Lộc Tục dẫn quân dẹp giác Ma Mạc ở Tử Di Sơn và thu phục Vương Đạo Nhân ở
gần hồ Động Đình, cảnh ăn mừng lấy vợ và được phong vương. (4) Giai đoạn từ
lúc đức ngài làm vua đến lúc mất: (2879 TCN - 2792 TCN). Cảnh xây dựng toà
hành cung chính điện, làm hồ gương thần
phát tích, đào hồ tắm ngựa, đường đầu binh, đường bái tướng… ở ấp Phúc Thần.
Cảnh Kinh Dương Vương mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tương thân, tương ái
trong gia đình, họ tộc, quê hương, đất
nước đồng thời tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu chia rẽ của người nước
ngoài, cùng nhân dân đoàn kết chống thiên tai, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cuộc
sống. Đến năm 2792 bỗng một hôm trời sầu đất thảm, đức vua Thuỷ tổ Việt Nam
thiêm thiếp về thần trong lòng tiếc thiêng vô hạn của nhân dân.
Lăng
và đền thờ Kinh Dương Vương là một trong những lăng mộ, ngôi đền thiêng cổ nhất
Việt Nam, được nhân dân ta xây dựng và bảo vệ từ xa xưa. Nhân dân Phúc Khang có câu:
“Phúc
Khang nguyên lăng miếu
Nghĩa
lĩnh cổ kinh thành”
(Lăng
miếu đầu tiên tại thôn Phúc Khang kinh thành xưa ở núi Nghĩa Lĩnh).
Chính
nơi thiêng liêng này được xếp vào loại miếu
thờ đế vương các triều đại mỗi lần quốc khánh vua sai quan đến tế, dân đến thờ
phụng.
Trân
trọng những di tích có liên quan đến thời đại Hồng Bàng 2-2-1993 Bộ VH-TT
(nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch) ra Quyết định số 74/VH-QĐ công nhận
di tích lịch sử lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh.
Đền
thờ Kinh Dương Vương cùng với Lăng Kinh Dương Vương là di tích lịch sử văn
hoá quốc gia quan trọng của vùng Luy Lâu, Kinh Bắc và của quốc gia, là dấu ấn
lịch sử thiêng liêng nối sức mạnh cội nguồn dân tộc nhắc nhở con cháu luôn
luôn nhớ về tổ tông.
Nhan đề : Phong trào cách mạng 1930- 1931 với đỉnh cao Xô Viết – Nghệ
Tĩnh
Tác giả: Công ty Thiên Kim
Nơi xuất bản: Công ty Thiên Kim
Thời gian xuất bản: 5/10/ 2015
Địa chỉ:
http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&Itemid=33&id=377
Nhan đề : Quyết định lịch sử trong vụ thảm sát Gạc Ma 1988
Tác giả: Nguyễn Hưng
Nơi xuất bản: VN Express.net
Thời gian xuất bản: 11/3/2014
Địa chỉ: http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/quyet-dinh-lich-su-trong-vu-tham-sat-gac-ma-1988-2961698.html
Quyết định lịch sử trong vụ thảm sát Gạc Ma
1988
“HQ 505 trúng đạn đã nghiêng, để tàu chìm thì chẳng
những mất đảo mà chiến sĩ cũng hy sinh hết. Tôi phát lệnh bằng mọi giá lao
tàu lên đảo”, thuyền trưởng HQ 505 Vũ Huy Lễ nhớ lại quyết định trọng đại nhất
đời binh nghiệp 26 năm trước.
Những ngày đầu tháng 3, ông Vũ Huy Lễ bận rộn hơn thường lệ. Vị
đại tá, thuyền trưởng đang tất bật cho cuộc gặp đồng đội cũ trên con tàu
HQ 505 ở Hải Phòng. Sau đó ít ngày, ông sẽ đi Đà Nẵng gặp lại những đồng đội
khác từng có mặt trong trận hải chiến cách đây tròn 26 năm.
Nhắc đến trận chiến năm xưa, vị thuyền trưởng đã gần 70 tuổi bồi
hồi nhớ lại. Năm 1988, Trung Quốc đưa quân ra chiếm bãi đá Cô Lin, Len Đao và
Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Ba đảo này chỉ cách nhau vài hải lý, hợp
thành một cụm đảo trong nhóm đảo Sinh Tồn (quần đảo Trường Sa).
Các bãi đá này không có quân đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải
đưa tàu ra bảo vệ. Cuộc chiến chính thức nổ ra ngày 14/3/1988 và chỉ kéo dài
trong ít giờ buổi sáng trên cả 3 đảo.
Theo thuyền trưởng Lễ, thực tế ngay trước khi diễn ra trận chiến
không cân sức năm 1988, HQ 505 đang thực thi nhiệm vụ đưa bộ đội công binh và
vật tư công trình đến đảo Đá Lớn. Vừa hoàn thành công việc thì sáng
13/3/1988, tàu nhận được lệnh đến đảo Cô Lin.
Trên đường HQ 505 di chuyển, tàu Trung Quốc tìm cách ngăn chặn,
khiêu khích. 18h cùng ngày, dù bị đối phương gây nhiễu làm mất liên lạc với sở
chỉ huy song tàu vẫn đến đúng vị trí và hoàn thành nhiệm vụ cắm mốc chủ quyền
trên đảo Cô Lin sáng sớm 14/3.
Đe dọa và khiêu khích không thành, hôm sau tàu Trung Quốc
đã tấn công vào bộ đội Việt Nam đang bảo vệ cờ trên các đảo và nã đạn vào các
tàu HQ 505, 604, 605.
6h30 sáng, 3 tàu chiến Trung Quốc liên tục nã pháo vào HQ 505,
đạn trúng vào buồng máy, khu thông tin, đài chỉ huy, kho tàu bốc cháy. Gặp
gió mùa đông bắc thổi mạnh, máy bị hỏng nên tàu trôi xa khỏi đảo hơn một
hải lý. Pháo 85, 100 ly trên tàu Trung Quốc vẫn không ngừng nã đạn khiến HQ
505 bốc cháy ngùn ngụt, thân tàu thủng, nước tràn vào các khoang, dầu trôi ra
lênh láng mặt biển. Hệ thống liên lạc bị hỏng, không thể báo cáo tình hình với
cấp trên.
“Lúc này HQ 505 đã nghiêng và có nguy cơ chìm. Để tàu chìm thì
chẳng những mất đảo mà toàn bộ chiến sĩ cũng hy sinh, chỉ còn cách đưa tàu
lên bãi cạn”, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ nhớ lại.
Ngay lập tức, ông hội ý với Ban chỉ huy tàu và yêu cầu phải sửa
chữa bằng được máy móc để đưa tàu lên đảo. Trong vòng 3-4 phút, phương án này
được thống nhất. Dù bị thương nhưng máy trưởng, đại úy Nguyễn Đại Thắng vẫn
xông xáo chỉ đạo anh em sửa máy bằng được.
“Tàu mất điện, lái hỏng, chúng tôi phải dùng một máy tiến, máy
lùi để tàu quay mũi hướng về phía đảo. Sau vài phút rồ hết công suất hai máy,
tàu lao lên bãi cạn. Đến khi nghe tiếng san hô cọ rào rào và 2/3 thân tàu nằm
trên bãi thì tôi biết quyết định ủn bãi đã thành công”, vị thuyền trưởng kể.
Con tàu dài gần 100 mét, rộng 28 mét vừa yên vị trên bãi thì
cũng là lúc tàu chiến Trung Quốc tiếp tục nã đạn. Thuyền trưởng Lễ yêu cầu
anh em hủy tài liệu mật, sơ tán khỏi tàu nhằm hạn chế thương vong, đồng thời
chuyển vũ khí lên đảo chuẩn bị chiến đấu.
“Lúc đó dù lực lượng mỏng nhưng do đã án ngữ lối lên nên tôi
tin là dù địch có đổ bộ chúng tôi vẫn đánh được và hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ
đảo”, đại tá Lễ khẳng định.
Nhân lúc tàu địch rút ra xa, bộ đội trên tàu HQ 505 tổ chức dập
lửa, dùng xuồng cao su sang đảo Gạc Ma cứu vớt công binh, bộ đội của tàu HQ
604 bị chìm và đưa được 44 chiến sĩ trong đó có thương binh, tử sĩ về an
toàn.
Nhớ lại tình thế ngàn cân đó, thuyền trưởng Lễ cho rằng, đời
binh nghiệp có nhiều giây phút phải lựa chọn song quyết định lao tàu lên đảo
là quyết định trọng đại nhất của ông. HQ 505 sau đó hiên ngang trên đảo Cô
Lin, cờ tổ quốc tung bay trên tàu, dù nguy nan còn kéo dài hàng tháng trời.
Chín cán bộ chiến sĩ bám trụ ở Cô Lin do thuyền trưởng Lễ chỉ
huy luôn trong trạng thái chiến đấu. Ngày nào đối phương cũng cho tàu chiến đến
đe dọa. “Có ngày chúng quấy nhiễu 3-4 lần, dùng loa réo tên tôi ra hàng.
Nhưng điều đó khiến tôi và anh em càng quyết tâm bảo vệ đảo”, ông kể.
Không chỉ căng thẳng về tinh thần, do thực phẩm cạn, tiếp tế
khó khăn, cứ đêm đến vài chiến sĩ phải đốt đuốc xuống bãi san hô bắt cá. Có
hôm ăn bị ngộ độc, nhiều người đau buốt xương khớp, 3-4 ngày mới khỏi.
Dù có thể rút về đảo Sinh Tồn nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe
nhưng thuyền trưởng Lễ đã bám trụ lại đảo Cô Lin cùng các chiến sĩ đến tháng
6/1988, khi các hành động khiêu khích của hải quân Trung Quốc đã giảm và chủ
quyền trên đảo Cô Lin được giữ vững.
Đầu năm 1989, tàu HQ 505 và thuyền trưởng Vũ Huy Lễ được Nhà
nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều chiến sĩ
khác được thưởng huân chương chiến công các hạng. Đích thân Tổng bí thư Đỗ Mười
khi trao tặng danh hiệu đã khẳng định, tấm gương hy sinh, ý chí kiên cường
dũng cảm, tinh thần mưu trí sáng tạo, tình yêu thương đồng đội của thuyền trưởng
và tập thể cán bộ chiến sĩ tàu HQ 505 là niềm cổ vũ lớn lao với nhiệm vụ bảo
vệ vững chắc chủ quyền đất nước trên quần đảo Trường Sa.
THỜI NHÀ LÝ (
1010 – 1226 )
Nhan đề : Đòn đánh phủ đầu khiến quân Tống choáng váng
Tác giả: Khánh Lam
Nơi xuất bản: Báo điện tử Kiến thức
Thời gian xuất bản: 13/ 6/ 2014
Đòn đánh phủ đầu khiến quân Tống choáng váng
(Kiến Thức) - Trong nhiều thắng lợi trước giặc phương Bắc của tiền nhân,
chiến thắng của Lý Thường Kiệt có nét đặc sắc riêng biệt với tư tưởng
đánh đòn phủ đầu.
Trị loạn từ lúc còn manh nha
Khoảng đầu những năm 1070, triều đình nhà Tống quyết định
xâm lược nước ta. Mục đích của việc phát động chiến tranh nhằm giải quyết mối
nguy cơ về đối nội và đối ngoại. Tống Thần Tông và Tể tướng Vương An Thạch chủ trương “nếu
đánh thắng thì thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu,
Hạ sẽ phải kiêng nể”.
Do vậy nhà Tống chuẩn bị chiến tranh rất chu đáo. Vua Tống
lập ra “An Nam chiêu thảo sứ” với Quách Quỳ làm Chánh tướng, Triệu Tiết làm Phó tướng. 10
vạn quân, 1 vạn ngựa và 20 vạn dân phu được tập trung để chuẩn bị phát động
chiến tranh. Quân đội và lương thảo chuẩn bị cho chiến tranh được tập trung ở
các căn cứ Ung, Khâm, Liêm gần biên giới nước ta.
Những hành động của vua quan nhà Tống đã được các thám
báo của ta tức tối báo về triều đình. Trong triều lúc này Lý Thường Kiệt làm Thái úy nắm quân đội.
Ông chủ trương “Ngồi im đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh
của giặc”. Vua Lý Nhân Tông chuẩn y cho Thường Kiệt và Tông Đản đem 10 vạn
quân sang đánh phá châu Ung, Khâm, Liêm bên đất Tống.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vương An Thạch nhà Tống
cầm quyền, tâu với vua Tống rằng nước ta bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người có thể dùng kế chiếm lấy
được. Vua Tống sai Thẩm Khởi và Lưu Di làm Tri châu Quế Châu ngầm dấy binh người Man động,
đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với nước
ta.
Vua biết tin sai Lý Thường Kiệt, Tông Đản đem hơn 10 vạn
binh đi đánh. Quân thủy, quân bộ đều tiến. Thường Kiệt đánh các châu Khâm,
Liêm; Đản vây châu Ung. Đô giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu
bị Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây)
phá tan được, chém Thủ Tiết tại trận. Tri châu Ung châu cố thủ không hàng.
Quân ta đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên
thành mới hạ được… Bọn Thường Kiệt bắt sống dân 3 châu ấy đem về”.
Các nguồn tư liệu khác cho biết thêm là khi mang quân vào đất Tống,
Lý Thường Kiệt cho treo bảng cáo thị nêu
rõ lý do xuất quân là để triệt tiêu
những cơ sở chiến
tranh của triều Tống chứ không quấy phá dân lành nên tranh thủ được ít nhiều
sự ủng hộ của dân Tống.
Quân Lý cũng thực hành triệt phá các cơ sở cầu cống, kho tàng lương thảo,
vũ khí mà nhà Tống đã tích trữ ở 3 châu kể trên. Mục
đích của việc này nhằm phá hoại một phần tiềm lực chiến tranh của nhà Tống để
bẻ gãy mũi nhọn của địch.
Nhờ thành công của chiến dịch này, quân Tống đã phải vất
vả chuẩn bị thêm 1 năm nữa mới mang quân sang đánh Đại Việt được. Trong 1 năm
đó, nhà Lý đã tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng về mọi mặt và xây dựng
phòng tuyến vững chắc ở sông Như Nguyệt.
Nắm thế chủ động hoàn toàn
Cùng với việc chuẩn bị, Lý Thường Kiệt cũng rất chú trọng sử dụng
thám báo trên đất Tống. Sách Những trận đánh hay trong lịch sử dân tộc của
Nxb QĐND cho biết: “Lý Thường Kiệt đặc biệt chú trọng tổ chức
thám báo trên đất Tống. Ông đã dùng nhiều cách
trinh sát như: lấy dân
thuyền chài đi sang đất Tống sống lẫn với dân Tống, giả làm nhà sư, lái buôn…
để vào sâu trong nội địa nước Tống do thám tình
hình. Do công tác trinh sát của ta tổ chức tốt nên nhiều thám tử của ta đã hoạt
động mạnh khiến triều đình nhà Tống phải lo ngại.
Tháng 4/1076, Tống triều chỉ thị cho các lộ ven biển Quảng
Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến: “Khi mộ quân, phải đề phòng bọn gian trà trộn
vào”. Tháng sau đó lại có nhắc nhở: “Nghe tin Giao Chỉ cho nhiều kẻ gian tới
do thám vùng Lưỡng Quảng. Vậy
các chỉ huy, các tướng lĩnh phải coi chừng, chớ để nó dò biết được phép công, thủ, tiến thoái của ta”.
Cũng nhờ có thám báo, nhà Lý biết được âm mưu của nhà Tống
định liên kết với Chiêm Thành để cùng đánh ta. Vẫn với tư tưởng đánh đòn phủ
đầu, Lý Thường Kiệt lại đem quân vào đánh Chiêm Thành ở châu Bố Chính, Địa
Lý, Ma Linh.
Đại Việt sử ký toàn thư chép việc này ngắn gọn: “Mùa
thu, tháng 8, sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các quân đi
đánh Chiêm Thành, không thắng được. Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh rồi
về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh, và
chiêu mộ dân chúng đến đấy ở”.
Như vậy trước khi bước vào trận đấu chính với quân Tống,
quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã thực
hiện hai đòn phủ đầu vào quân Tống và quân Chiêm Thành. Đánh vào 3 châu Ung,
Khâm, Liêm là 3 nơi tích trữ lương thảo quân trang quân dụng của nhà Tống nhằm phá thế mạnh
của địch còn đánh Chiêm Thành là để cảnh báo
cho Chiêm Thành biết ta đã có chuẩn bị buộc họ phải xem xét lại việc liên kết
với Tống đánh ta. Thực tế trong cuộc kháng chiến chống Tống sau đó, quân
Chiêm Thành đã không dám xuất binh liên thủ với Tống vì biết ta đã có đề
phòng.
Cuộc kháng chiến diễn ra sau đó đã được nhiều sử sách đề
cập tới. Quách Quỳ bị chặn đứng ở phòng tuyến Như Nguyệt, tiến không được lùi không
xong mà quân thì thiếu lương ăn và bị chết vì dịch bệnh, và bị các toán quân Đại Việt tiêu hao, tình
thế ngày càng khốn đốn.
Nắm bắt cơ hội, Lý Thường Kiệt sai sứ giả sang thuyết
khách để giảng hòa. Hết cách Quách Quỳ đành nhận lời
giảng hòa để rút lui.
Như vậy cuộc kháng chiến chống Tống năm 1076-1077 nổi bật
lên tư tưởng chiến lược chủ động của Lý Thường Kiệt. Ông chủ động đánh phủ đầu,
chủ động lập phòng tuyến và khi thấy có cơ hội để kết thúc chiến tranh lại
chủ động đề nghị giảng hòa. Trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc ta, duy nhất lần này quân nước ta chủ động đánh trước khi phát
hiện đối phương có âm mưu xâm lược ta và đòn
đánh phủ đầu này đã khiến địch quân choáng váng.
6. THỜI BẮC THUỘC
Nhan đề : CUỘC KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Tác giả : Công ty Thiên Kim
Nhà xuất bản : Công ty Thiên Kim
Thời gian xuất bản : 28/9/ 2015
CUỘC KHỞI
NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân năm
Canh Tý (40CN) là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc toàn
diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong kiến phương Bắc ở đầu công nguyên.
Cuộc khởi nghĩa ấy do bà Trưng Trắc phát động cùng em gái là Trưng Nhị, người có
công lao cùng chị và của rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh trong hàng ngũ đội
quân của Hai Bà.
Đó là cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước
vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ thời kỳ ấy. Chấm chấm dứt giai đoạn
thống trị của phong kiến phương Bắc lần thứ nhất dài tới 246 năm (207 TCN -
39 CN).
Sử nước ta viết: ''...
Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị
em đều có tướng dũng lược, căm giận Tô Định chính lệnh hà khắc tàn ngược tụ họp
người các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện
hưởng ứng , cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại, thu lại hết đất cũ Nam Việt,
cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu..."
Cũng bởi ý chí anh hùng hào kiệt mà trải qua hàng nghìn năm và
mãi mãi về sau, sựn ghiệp và danh tiếng của Hai Bà còn lưu danh. Những sự kiện lịch sử về hai Bà và cuộc khởi
nghĩa năm 40 CN đánh đuổi Tô Định, năm 42 CN chống Mã Viện
xâm lược đã theo dòng thời gian chuyển
hóa thành các sự tích văn hóa, vào huyền thoại, đi vào tâm linh và tín ngưỡng cộng đồng người Việt Nam.
Những nơi Hai
Bà đã đi qua, những đồn lũy và chiến trận do Hai Bà Trưng cùng các vị tướng lĩnh lập nên cũng theo đó mà trở
nên nơi đền miếu thiêng liêng thờ cúng khói hương không dứt. Nay là các di
tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Vĩnh Phúc.
Hai Bà là con gái Lạc Tướng
huyện Mê Linh, hậu duệ đời thứ 25 của Vua Hùng- họ Lạc. Thân mẫu của Hai Bà
tên là Trần Thị Đoan (tục danh là bà Man Thiện), có nghề trồng dâu, nuôi tằm,
kéo tơ.
Ngày 01 tháng 8 năm Giáp Tuất (14.CN) bà Man Thiện sinh một lần
được hai con gái. Vì là nhà tằm tơ, nên 3
năm sau, mới đặt tên cho cô chị là Trắc (lứa đầu - ''lứa chắc'' theo cách
tính của nhà nuôi tằm), cô em là Nhị (''lứa nhì''- lần thứ hai)
Năm 19 tuổi, cha mẹ gả cô chị là Trắc, lấy con trai quan Lạc tướng huyện Chu Diên là Thi Sách tức là năm Canh Thìn
(32. CN). Vợ chồng đoàn tụ mới được vài năm thì Thi Sách bị Tô Định giết chỉ
vì con hai nhà tướng kết hôn với
nhau, trở thành một lực lượng lớn, không có nơi cho sự thống trị của nhà Hán.
Căm giận quân giặc bạo ngược, vì nợ nước nay lại thêm mối thù nhà, bà Trắc đã
cùng với em là Nhị phát động trong toàn quận Giao Chỉ, tập hợp các Lạc hầu, Lạc
tướng, kêu gọi quân sĩ và nhân dân nổi lên
cùng đánh giặc. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam được tin quận Giao Chỉ khởi nghĩa
đều nổi lên hưởng ứng.
Cuộc khởi nghĩa ấy chia ra các giai đoạn như sau:
I- THỜI KỲ TRƯỚC
NGÀY TUYÊN BỐ KHỞI NGHĨA:
Sau khi ông Thi Sách bị giết, bà Trắc quyết chí phục thù trả
oán. Bà tiến hành tổ chức chứa tích lương
thực, vận động thu dùng các anh hùng hào kiệt trung thiên hạ, những người
cùng chí hướng, chiêu binh tuyển tướng ở các địa phương, nên người theo về
ngày một đông. Lúc đó thuộc địa bàn Sơn Tây cũ có:
Liên Chiểu được một người Phù Sa được một người (sau đổi 1à Phần
Sa, rồi Các Sa- xã Trung Kiên huyện Vĩnh Tường)
Huyện Bạch Hạc có:
- Xã Văn Trưng được 1 người (nay là thôn Văn Trưng xã Tứ Trưng huyện Vĩnh Tường)
- Xã Đại Tự được 1 người (nay thuộc huyện Yên Lạc).
- Xã Cẩm Viên được 1 người (nay là thôn thuộc xã Đại Tự)
- Xã Phủ Yên được l người (nay là thôn thuộc xã Yên Lập huyện
Vĩnh Tường)
Huyện Yên Lạc có:
Xã Bình Lỗ được l người (có lẽ 1à Tề Lỗ huyện Yên Lạc)
- Xã Mạnh Lân được một người (sau là Kim Lân xã Hồng Châu)
- Xã Thọ Lão được một người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê
Linh)
- Xã Yên Lão được một người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê
Linh)
- Xã Vân Canh được 1 người (nay thuộc vào thị trấn huyện Bình
Xuyên)
Huyện Lập Thạch có:
- Xã Vân Nhưng được
3 người (nay thuộc xã Tân Lập)
- Xã Ân Hộ được 3 người (tục danh làng Họ, nay thuộc xã Tham Sơn)
- Xã Vụ Cầu được 1 người (tục danh làng Cầu, nay thuộc xã Tam
Sơn)
Tỉnh Hà Tây có 3 huyện có người ứng nghĩa:
Huyện Tiên Phong có:
Xã Kim Bí được 1 người
- Xã Tân Hoa được 1 người
Huyện Yên Sơn có:
- Xã Bối Khê được 1 người
- Xã Hữu Quang được 1 người
Huyện Thạch Thất có:
- Xã Tuy Lộc được l người
Để đảm nhận công việc trọng đại ấy, bà Nhị được chị gái cất nhắc
làm chức ''Bình khôi'' sau khởi nghĩa phong làm ''Bình khôi công chúa''- tức
là vị công chúa đứng đầu thu phục thiên hạ). Rồi gửi tờ hịch chiêu dụ mọi người trong toàn quận Giao Chỉ, bởi vậy các nướng, nữ
quân chiếm đa phần trong tổng số lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa.
Nhiều thư tịch đời
sau chép về khí thế ra quân của những ngày ấy mà sự tích hầu hết đã trở
thành huyền thoại: ''Đương thời nam nhi thao lược vị hữu kỳ nhân; Nữ tướng
soái binh thần linh phát động''. Nghĩa là: Lúc ấy nam nhi tài giỏi chưa có mấy người; Nữ tướng soái binh như có thần thiêng
thúc giục. Bởi vậy, chỉ 15 ngày sau tướng sĩ mọi miền đã tìm
đến tụ nghĩa. Đồng thời bà Trắc đã đến nhiều địa phương vận động khởi nghĩa.
Nơi ấy ngày nay đều có di tích thờ cúng ghi nhận. Bà cũng đã vận động lên miền
thượng lưu sông Đáy, giáp gianh giữa 2 huyện
Tam Dương - Lập Thạch ngày nay tập hợp lực lượng. Nơi bà hội quân với các bà
Quý Lan (An Bình phu nhân) và Ngọc Kinh công chúa là di tích
''Bãi Hội'' ở làng Đông Định, xã Thái Hoà, Lập Thạch. Nơi ấy nay có đền thờ Bà tạo thành một vùng căn cứ rộng
lớn ở các xã Liễn Sơn, Thái
Hoà, Liên Hoà, Hợp Lý huyện Lập Thạch và các xã Hoàng Hoa, Đồng Tình, An Hoà huyện
Tam Dương.
Các di tích trong khu vực sông Đáy.
1- Xã Liên Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 1 di tích
2- Xã Liễn Sơn huyện
Lập Thạch (bờ phải sông): 2 di tích
3- Xã Thái Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 3 di tích
4- Xã Bồ Lý huyện Lập Thạch (Vực Truông): 1 di tích
5- Xã Hợp Lý huyện Lập Thạch (bờ trái sông): 1 di tích
6- Xã An Hoà huyện Tam Dương
(bờ trái sông): 3 di tích
7- Xã Đồng ranh huyện Tam Dương (bờ trái sông): 6 di tích
8- Xã Hoàng Hoa huyện Tam Dương (bờ trái sông): 2 di tích
Cộng xã: 19 di tích
Tháng Giêng năm Canh Tý (40CN), tất cả các tướng ở mọi vùng đều
đã tiến quân về họp lại ở thành Phong Châu sông Bạch Hạc để khao thưởng các
quân sĩ.
II- KHỞI NGHĨA Ở CỬA SÔNG HÁT
Sau cuộc tổng tập hợp quân đội ở Phong Châu, Hai Bà đã cho
quân đội vượt sông sang lập đàn thề ở bãi cát dài cửa sông Hát.
Nơi ấy nay thuộc xã Hát
Môn huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây. Địa điểm cách đê hữu sông Hồng 6km, gần chỗ cửa
Hát tách ra từ sông Hồng. Tại Hát Môn, Hai Bà cho quân sĩ dựng đàn tế cáo trời
đất, tuyên bố khởi nghĩa. Lời tuyên như
sau:
''Trời sinh một người làm
tông chủ của vạn vật trong trời đất. Muôn vật ràng buộc vào đấy, cỏ cây quan
hệ về đấy. Trải các triều trước các vị đương thiên tử đều là bậc thánh minh,
khiến cho triều đình có đạo Yên dân lo việc nước, đức hoá mở mang, thiên hạ thanh bình,
quốc gia vô sự. Nay có người hơ
khác tên là Tô Định, lòng dạ chớ dê, hăm doạ 4 phương, tham tàn bạo ngược, trời, đất, thần, người đều căm giận.
Thiếp là cháu gái của Vua Hùng thuở trước, hôm nay đau lòng thương dân vô tội, dấy nghĩa trừ tàn nguyện xin các vị thần
linh hội họp tại đàn này chứng giám và phù hộ cho thiếp. Thiếp là Trưng Nữ dấy
binh dẹp giặc, che chở dân lành, thú phục lại muôn vật cũ của tổ tông. Không
phụ ý trời,
thoả nguyện nơi đền miếu của các bậc đương các đời,
không phụ sự trông đợi của tổ phụ nơi chín suối''
Tế xong, Hai Bà phân chia các đạo quân, tổ chức quân ngũ.
Riêng số các nữ tướng, nữ binh chia
làm 2 đội, phong cho các chức:
1- Lão Tiên công chúa nắng giữ ''Trung quân nội thị''
2 - Công chúa Cẩn Hạnh nắm giữ ''Tiền quân nội thị'' có 500
quân
3- Công chúa Huệ Đức và Công chúa Trang ranh nắm giữ quân ''nội
thị binh nhung''
4- Công chúa Ả Chàng, Ả Chạ (vì Lê Ngọc Thanh cùng danh hiệu)
nắm giữ "Tả quân nội thị", quân nữ có 500 người
5- Thuỵ công chúa và công chúa Minh Trinh nắm giữ ''Hữu quân nội
thị''. Quân nữ có 500 người
6 - Công chúa Minh Nương
nắm giữ tiền quân - quân nữ có 100 người
7 - Công chúa Tráng Cẩn nắm giữ ''Tả quân nội thị''. Quân nữ
có 100 người
8- Công chúa Bình Khôi (tức bà Nhị) nắm giữ toàn bộ các vệ ''Nữ
quân nội thị...
Còn các tướng nam
đều cớ phong chức thu nạp tham gia khởi nghĩa.
Sau đó bà Trắc cùng các tướng sĩ bái lạy trời đất, thống lĩnh quân dân, tiến
quân về thành Long Biên đánh Tô Định.
III- CUỘC TIÊN QUÂN MÙA XUÂN NĂM CANH TÝ
(42.CN) ĐẠI THẮNG:
Trên đường tiến quân, Hai Bà dẫn toàn bộ quân đội về làng Hạ
Lôi dựng đồn đóng quân.
Đêm đó ở Hạ Lôi, (tên thời nội thuộc Hán là Kỳ Họp) có hơn 10 vị tướng dưới quyền được chọn làm tướng ''thủ
túc'' (thân cận, gần gũi như tay chăn), và có 17 nữ tướng có tài trí ngày đêm
thường trực ở bên cạnh Trưng Vương. Ngày 07 tháng Giêng, bà Trưng mở tiệc lớn
khao quân ở Hạ Lôi 10 ngày, rồi chia quân làm 5 đạo.
- Đi tiên phong là Đại Vương Đông Hối
- Trung quân là Nữ Vương
Trưng Trắc (ở giữa)
- Tả quân là Minh công dực thánh (?) (bên trái)
- Hữu quân là Lương
công dực thánh (?) (bên phải)
Hậu quân là Hiến công (?) và Nhị nương công chúa
Tất cả cùng tiến về thành Long Biên đánh Tô Định. Cảnh tượng
ngày xuất quân thật oai hùng: ''Cờ xí đầy đất, chiêng trống vang trời, tướng nam lẫm liệt, tướng nữ lạnh lùng''. Trước sức mạnh
như vũ bão của đội quân Hai Bà, quân Hán không kịp tổ chức nghênh chiến,
chống đỡ, nên khi quân đội của Hai Bà tấn công, quân của Tô Định chỉ còn biết
thua chạy và bị giết ''máu chảy thành ao, xương tụ thành gò'', xác giặc chồng chất làm
cho ''dựng sông nghẽn chảy'', Tô Định bị đao chém sát thương. Cuối cùng thì
Tô Định nhanh chóng rút chạy về Trung Quốc, chịu tội với triều đình nhà Hán.
Chẳng bao lâu, trong toàn quận Giao Chỉ, nghĩa quân tổng công kích, thu phục
được 65 thành.
IV VƯƠNG TRIỀU
HỌ TRƯNG.
''Đại Việt sử ký toàn thư"
chép là ''Trưng Nữ Vương Kỷ''
Đất nước giải phóng, Hai Bà thu quân về thành Phong Châu. Bà
Trưng Trắc lên ngôi Vương, đứng đầu bộ máy
nhà nước độc lập tự chủ. Tiến hành phong thưởng thứ bậc công thần cho các tướng
sĩ. Cắt cử một số tướng sĩ trở về nơi căn cứ cũ của mình
xây dựng doanh điện phòng vệ làm hậu cứ cho triều đình.
Ở trung ương, xây dựng bộ máy nhà nước vương triều gồm có 2 ban
''văn- võ''. Tất cả đều có chữ ''tiết ché' (nghĩa là ''chỉ huyết), đặt
quan chia chức đảm nhận công việc Nhà nước.
Lại xây dựng 1 ''Sở hành cung'' ở xứ đầu voi làng Hạ Lôi làm nơi ''Sở thiết
triều'' (nơi bàn việc nước lưu động). Phía sau xây thành bảo vệ, đời sau gọi
là ''thành ống''. Đồng thời bà Trưng Nhị dựng hai luỹ ở Cư An, đắp thành Đền,
tất cả đều nằm ở phía Tây Bắc ''hành cung'' Hạ Lôi trưng sự bố phòng bảo
vệ.
Sau đó, bà Trưng Trắc
đời đô về Hạ Lôi, định trị sở việc nước chính thức là ''hành cung'' xứ đầu
voi. Nay là đền Hai Bà. Đất ấy đời Hán là làng Kỳ Hợp huyện Chu Diên. Từ đó
chính trị ổn định, việc nước trong sáng êm đềm, lòng
dân theo phục.
V- CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÃ VIỆN NĂM 42.CN.
Năm 41.CN, vua Hán Quang Vũ được tin triều đình Lĩnh Nam đã được
xác lập, dơ Bà Trưng Trắc làm tôn
quân, nên tức tốc hạ lệnh cho các quận, châu, huyện phía nam là Trường Sa, Hợp
Phố và một số nơi thuộc Giao Chỉ sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, mở đường
thông các núi khe, chứa thóc lương để dự phòng cho cuộc xâm lăng
sắp tới Ngay sau đó, Hán Quang Vũ lại sai Tô Định dẫn 5 vạn quân đi trước trở
lại Giao Chỉ. Mã Viện vui mừng được Hán Vũ Đế cử làm Phục Ba tướng quân, cho tổng chỉ huy cùng với phó tướng là Phù Lạc
Hầu Lưu Long, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân đem 30 vạn quân tiến vào nước
ta để đánh Trưng Vương.
Quân Hán qua cửa ải Ngọc Quang
1- Cuộc Chiến ở thành Lạng Sơn
Được tin bái về, ở thành Hạ Lôi, Trưng Trắc cử trưng Nhị và hai đại tướng đem quân lên đánh
chặn giặc, giết chết được Tô Định ngay từ trận đầu giao chiến. Thấy tình
thế thất lợi, sau khi qua ải Ngọc Quan, Mã Viện và Lưu Long dẫn quân đến thành Lạng Sơn lập doanh luỹ cố thủ
thanh thế rất to.
Để chặn đánh quân địch từ ngoài biên ải, Trưng Trắc dẫn toàn bộ đại quân lên thành Lạng Sơn cự chiến
Mã Viện là viên tướng già
(lúc này Viện đã ngoài 70 tuổi) giảo quyệt, biết trưng Trắc đã đem hết quân đội lên đánh
thành Lạng Sơn nên ra lệnh cho quân sĩ cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian
tiếp chiến, khiến đại quân của Hai Bà Trưng gặp bất lợi. Mã Viện chơ Lưu Lang coi giữ 25 vạn quân ở lại cố thủ thành Lạng
Sơn, cầm chân quân đội của Hai Bà Trưng dưới thành, bố phòng ở
những nơi hiểm trọng, không chịu ra đánh. Đại
quân của Hai Bà do vậy phải kìm lại vây thành.
2- Âm mua của Mã Viện
Trong khi tình thế chiến trận kéo dài im ắng, thì Mã Viện dẫn
5 vạn quân bí mật xuất phát, không kể ngày đêm, cướp đường mà đi, cấp tốc chỉ trong 5 ngày sau đã đến
khu Thanh Trước, dựa vào địa hình nụ; mà đồn binh, tích trữ lương thảo. Rồi
Mã Viện trước hết tấn công kho quân lương ở Nội Phật
dơ bà Thánh Mẫu Dưỡng quản lĩnh, đánh tan cơ sở hậu cần của quân đội Hai Bà.
Sau đó Mã Viện tấn công thành Cự Triền.
Cự Triền là một thành lớn do Bà Trưng Nhị tổ chức xây đắp để phòng
thủ ở mặt tây bắc cho đô thành Mê Linh. Ở mặt trận này tuy quân đội của Bà Trưng đã tiến lên Lạng Sơn, nhưng do thành được xây đắp kiên cố nên Mã Viện
không dễ dàng hạ nổi. Địa hình lại hoàn toàn bất lợi cho quăn Hán, vì thành
được xây đắp trên gò Dền giữa cánh đồng Dền, bốn bề đồng không nước ngập, địa
hình trở nên phức tạp. Để lấy điểm tựa tập kết quân sĩ tấn công thành Dền, Mã
Viện đã phải hấp tấp đưa vàơ địa thế
sẵn có của một quả gò nhỏ, gọi là gò Viên (dân đã quen gọi là gò Vượn) thuộc cánh đồng Vượn) đắp trong một đêm phải xong.
Một trận chiến quyết liệt đã diễn ra, cuối cùng thì thành Dền
cũng bị hạ. Đình Cư An xã Tam
Đồng, di tích thờ Bà Trưng Nhị
có đôi câu đối viết về sự kiện này. Như sau:
Triền thuỷ ba bình phần tử y hi hàm thánh trạch
Viên thành nguyệt hiểu đống yểm ẩn ước hiện thần quang
Nghĩa là: Sóng nước
quanh đồng triền (đồng Dền) đã yên, cây cối nghĩ rằng có công ơn của Thánh Trăng soi thành Vượn, bước tới gần gò đống
như có như không, cũng bày ra biến hoá rõ ràng. Sau khi hạ thành Cự Triền, Mã
Viện không mấy khó khăn khi tiến về đánh thành Hạ Lôi, đào mộ cha mẹ Hai Bà,
yết cung điện. Kinh đô Mê Linh phút chốc chìm trong máu lên. Sau đó, Mã Viện
lại kéo quân lên thành Lạng Sơn,
trong đánh ra, ngoài hợp chiến cùng tiến đánh Hai Bà Trưng từ hai phía.
3- Trận chiến ở Lãng Bạc
Sau khi bị tổn thất ở thành Lạng Sơn, lại bị quân Hán bức bách ở mặt trận phía trước và
phía sau, nên Bà Trưng rút quân trở về. Đội quân hai bên gặp nhau ở Lãng Bạc,
địa điểm ở vùng 2 huyện Tiên Du- Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh.
Một trận quyết chiến đã xảy ra. Sử ''Toàn thư" chép: ''Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ
quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui về giữ Cấm Khê''
4- Công cuộc cố thủ cấm Khê
Sau khi rút khỏi mặt trận Lãng Bạc, Trong Vương biết là thành Cự Triện và kinh đô Mê Linh đã bị
thất thủ, Hai Bà tiến lên vùng Cấm Khê thủ hiểm, tính kế lâu dài. Cấm Khê (sử
cũng chép là Kim Khê) là vùng đất ngập nước bên bờ sông Cà Lồ từ làng Gia
Phúc (xã Xuân Đài), qua làng Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao của xã Vân Đài, xã
Tiên Đài của tổng Vân Đài huyện Yên Lạc, phủ Vĩnh Tường triều Nguyễn, đến xã Can Bi tổng Xuân
Lãng huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Yên. Trong đó các làng Cẩm La, Phúc Lộc, Yên
Nội, Đống Cao đời Lê trở về trước thuộc
xã Vân Đài hoặc Quan Đài cùng với các xã Xuân Đài Tiên Đài là nơi tập trung nhất về di tích thờ cúng Hai Bà Trưng.
Ở cấm Khê, quân Hai Bà bị vây hãm mấy tháng liền. Phía trước không còn đường tiếp lương, cỏ ngựa,
phía sau không có quân cứu viện lại biết thành trì lăng mộ ở nhà (Hạ Lôi) đã
bị Mã Viện phá hết, nhưng
không thể tự phá trận để thoát khỏi vòng vây. Biết rằng cơ nghiệp do chị em gây dựng bấy nay sẽ khống còn,
Bà Trưng Trắc tự khẳng định với mình rằng:
Sinh ra làm người, thà
làm quỷ nước Nam, há chau đã bị trói tay bắt sống, bị người Hán phương Bắc làm nhục?
Thế là Bà chỉ huy toàn quân quyết đánh một trận, quân - thần -
tướng - tá đều bị vây, bị giết ở Cấm Khê. Số còn lại trở về nơi doanh địa cũ rồi lần lượt bị Mã Viện
đánh bại. Thu thắp trong điền dã của chúng tôi trong khu vực xã Văn Tiến huyện
Yên Lạc, thấy có như sau:
- Gò Hang: Thống kê năm 1938 của xã Vân Đài thì trong làng
''có lái đống gọi là gò Hang, nhưng
không biết dưới có hang không''.
Ngày nay gò Hang hiện còn, thuộc thôn Yên Nội. Diện tích khoảng
5-6 sào Bắc Bộ, nhân dân ở đây gọi là gò Cánh Tiên. Hang có cửa vào xây cuốn
vòm như hình chớp bia bằng gạch bìa, ở
thành có vạch ô quả trám. Cửa hang nổi lên trên mặt đất nay mới bị lấp. Chúng
tôi nghĩ rằng người xưa xây như một cái am rồi mới gánh đất đổ lên thành vòm.
Gò có ''hang'' ở dưới nên gọi ''Gò
Hang''. Vì vậy đất trên gò gồm nhiều loại, xồm xộp không hoàn thổ và cỏ không
mọc được. Cũng chưa thấy khai thác trồng trọt. Nay mới lập 1 am nhỏ để mấy
nhà bên cạnh gò thắp hương.
Có thể dơ có gò
Hang là một ngôi mộ cổ dùng gạch xây đời Hán mà vùng này có địa danh Hi Sơn.
Tất nhiên còn chờ ở các tài liệu khảo cổ trong tương lai. Xung quanh gò Hang còn các địa
danh: Thầy Vang, Chùa Tranh, Giếng Tó, Gò Bắc Bếp; Gò Tổng Binh, Gò Cơn Ngựa.
Thầy Vang: Chữ ''Thầy'' theo cách giải thích của địa phương
nghĩa là ''bờ lũy''. Thầy Vang nghĩa là bờ lũy Vang. Chữ Vang là địa danh thuộc
thôn Yên Nội.
Chùa Tranh: Tên chữ là ''Phúc Lâm Tự''. Chùa không thờ bằng tượng Phật mà thờ bằng ''Tranh Phật''. Chùa Tranh thuộc
thôn Đống Cao ở sau đình Đống Cao. Là một hiện tượng hiếm thấy.
Giếng Tó: Là giếng ở trước
đình Đống Cao. Tang và thành giếng làm bằng đất thớ màu vàng. Nước giếng rất trong
Gò Bắc Bếp: Địa danh thuộc thôn Đống Cao, ở cạnh đình Đống
Cao. Đào yên tìm thấy nhiều tro bếp và các ''ông đầu rau''.
Gò Con Ngựa: ở sau đình Đống Cao, cũng gọi là gò ''Đồng Cũ''.
Trống canh tác nhân dân địa phương tìm thấy nhiều gạch bìa cổ, có vạch. Bờ
móng xây bằng vữa đất, xếp từng lượt khi cày sâu vẫn bật gạch tên.
Dưới làng Vân Đài là
làng Tiên Đài được nhân dân giải thích là ''Đài quan sát'' ở phía trước. Làng
này xưa chỉ có một họ Trần.
Làng Xuân Đài, địa danh thời cổ là làng Liễu. ở đây có gò ''Tổng
binh'', nơi cớ đền Gia Phúc thờ Hai Bà Trưng. Cả
làng xưa chỉ có một họ Phạm.
Như vậy xã Văn
Tiến ngày nay gồm ''3 làng Đài'' xưa là:
Tiên Đài, Xuân Đài và Vân Đài (hoặc Quan Đài gồm: Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao,
Yên Nội)
Toàn bộ các cánh đồng cấy lúa trồng màu vùng này xưa kia là vùng đầm lầy bên bờ sông Cà Lồ. Sau đê sông
Cà Lồ bị vỡ vào thời Tự Đức, nên bị bồi lấp nay thành đồng ruộng. Nay là ruộng
đất các xã Nguyệt Đức, Văn Tiến.
Về giai đoạn cuối cùng của cuộc khởi nghĩa ở Cấm Khê, sử CM
chép: ''Trưng Vương cùng em gái là Nhị cự chiến với
quân Hán, quân vỡ thếch, đều bị thất trận chết. Sự nghiệp anh hùng cứu nước của
họ Trưng đến đây là kết thúc.
6. THỜI BẮC THUỘC
Nhan đề : CUỘC KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Tác giả : Công ty Thiên Kim
Nhà xuất bản : Công ty Thiên Kim
Thời gian xuất bản : 28/9/ 2015
CUỘC KHỞI
NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân năm
Canh Tý (40CN) là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc toàn
diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong kiến phương Bắc ở đầu công nguyên.
Cuộc khởi nghĩa ấy do bà Trưng Trắc phát động cùng em gái là Trưng Nhị, người có
công lao cùng chị và của rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh trong hàng ngũ đội
quân của Hai Bà.
Đó là cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước
vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ thời kỳ ấy. Chấm chấm dứt giai đoạn
thống trị của phong kiến phương Bắc lần thứ nhất dài tới 246 năm (207 TCN -
39 CN).
Sử nước ta viết: ''...
Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị
em đều có tướng dũng lược, căm giận Tô Định chính lệnh hà khắc tàn ngược tụ họp
người các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện
hưởng ứng , cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại, thu lại hết đất cũ Nam Việt,
cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu..."
Cũng bởi ý chí anh hùng hào kiệt mà trải qua hàng nghìn năm và
mãi mãi về sau, sựn ghiệp và danh tiếng của Hai Bà còn lưu danh. Những sự kiện lịch sử về hai Bà và cuộc khởi
nghĩa năm 40 CN đánh đuổi Tô Định, năm 42 CN chống Mã Viện
xâm lược đã theo dòng thời gian chuyển
hóa thành các sự tích văn hóa, vào huyền thoại, đi vào tâm linh và tín ngưỡng cộng đồng người Việt Nam.
Những nơi Hai
Bà đã đi qua, những đồn lũy và chiến trận do Hai Bà Trưng cùng các vị tướng lĩnh lập nên cũng theo đó mà trở
nên nơi đền miếu thiêng liêng thờ cúng khói hương không dứt. Nay là các di
tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Vĩnh Phúc.
Hai Bà là con gái Lạc Tướng
huyện Mê Linh, hậu duệ đời thứ 25 của Vua Hùng- họ Lạc. Thân mẫu của Hai Bà
tên là Trần Thị Đoan (tục danh là bà Man Thiện), có nghề trồng dâu, nuôi tằm,
kéo tơ.
Ngày 01 tháng 8 năm Giáp Tuất (14.CN) bà Man Thiện sinh một lần
được hai con gái. Vì là nhà tằm tơ, nên 3
năm sau, mới đặt tên cho cô chị là Trắc (lứa đầu - ''lứa chắc'' theo cách
tính của nhà nuôi tằm), cô em là Nhị (''lứa nhì''- lần thứ hai)
Năm 19 tuổi, cha mẹ gả cô chị là Trắc, lấy con trai quan Lạc tướng huyện Chu Diên là Thi Sách tức là năm Canh Thìn
(32. CN). Vợ chồng đoàn tụ mới được vài năm thì Thi Sách bị Tô Định giết chỉ
vì con hai nhà tướng kết hôn với
nhau, trở thành một lực lượng lớn, không có nơi cho sự thống trị của nhà Hán.
Căm giận quân giặc bạo ngược, vì nợ nước nay lại thêm mối thù nhà, bà Trắc đã
cùng với em là Nhị phát động trong toàn quận Giao Chỉ, tập hợp các Lạc hầu, Lạc
tướng, kêu gọi quân sĩ và nhân dân nổi lên
cùng đánh giặc. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam được tin quận Giao Chỉ khởi nghĩa
đều nổi lên hưởng ứng.
Cuộc khởi nghĩa ấy chia ra các giai đoạn như sau:
I- THỜI KỲ TRƯỚC
NGÀY TUYÊN BỐ KHỞI NGHĨA:
Sau khi ông Thi Sách bị giết, bà Trắc quyết chí phục thù trả
oán. Bà tiến hành tổ chức chứa tích lương
thực, vận động thu dùng các anh hùng hào kiệt trung thiên hạ, những người
cùng chí hướng, chiêu binh tuyển tướng ở các địa phương, nên người theo về
ngày một đông. Lúc đó thuộc địa bàn Sơn Tây cũ có:
Liên Chiểu được một người Phù Sa được một người (sau đổi 1à Phần
Sa, rồi Các Sa- xã Trung Kiên huyện Vĩnh Tường)
Huyện Bạch Hạc có:
- Xã Văn Trưng được 1 người (nay là thôn Văn Trưng xã Tứ Trưng huyện Vĩnh Tường)
- Xã Đại Tự được 1 người (nay thuộc huyện Yên Lạc).
- Xã Cẩm Viên được 1 người (nay là thôn thuộc xã Đại Tự)
- Xã Phủ Yên được l người (nay là thôn thuộc xã Yên Lập huyện
Vĩnh Tường)
Huyện Yên Lạc có:
Xã Bình Lỗ được l người (có lẽ 1à Tề Lỗ huyện Yên Lạc)
- Xã Mạnh Lân được một người (sau là Kim Lân xã Hồng Châu)
- Xã Thọ Lão được một người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê
Linh)
- Xã Yên Lão được một người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê
Linh)
- Xã Vân Canh được 1 người (nay thuộc vào thị trấn huyện Bình
Xuyên)
Huyện Lập Thạch có:
- Xã Vân Nhưng được
3 người (nay thuộc xã Tân Lập)
- Xã Ân Hộ được 3 người (tục danh làng Họ, nay thuộc xã Tham Sơn)
- Xã Vụ Cầu được 1 người (tục danh làng Cầu, nay thuộc xã Tam
Sơn)
Tỉnh Hà Tây có 3 huyện có người ứng nghĩa:
Huyện Tiên Phong có:
Xã Kim Bí được 1 người
- Xã Tân Hoa được 1 người
Huyện Yên Sơn có:
- Xã Bối Khê được 1 người
- Xã Hữu Quang được 1 người
Huyện Thạch Thất có:
- Xã Tuy Lộc được l người
Để đảm nhận công việc trọng đại ấy, bà Nhị được chị gái cất nhắc
làm chức ''Bình khôi'' sau khởi nghĩa phong làm ''Bình khôi công chúa''- tức
là vị công chúa đứng đầu thu phục thiên hạ). Rồi gửi tờ hịch chiêu dụ mọi người trong toàn quận Giao Chỉ, bởi vậy các nướng, nữ
quân chiếm đa phần trong tổng số lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa.
Nhiều thư tịch đời
sau chép về khí thế ra quân của những ngày ấy mà sự tích hầu hết đã trở
thành huyền thoại: ''Đương thời nam nhi thao lược vị hữu kỳ nhân; Nữ tướng
soái binh thần linh phát động''. Nghĩa là: Lúc ấy nam nhi tài giỏi chưa có mấy người; Nữ tướng soái binh như có thần thiêng
thúc giục. Bởi vậy, chỉ 15 ngày sau tướng sĩ mọi miền đã tìm
đến tụ nghĩa. Đồng thời bà Trắc đã đến nhiều địa phương vận động khởi nghĩa.
Nơi ấy ngày nay đều có di tích thờ cúng ghi nhận. Bà cũng đã vận động lên miền
thượng lưu sông Đáy, giáp gianh giữa 2 huyện
Tam Dương - Lập Thạch ngày nay tập hợp lực lượng. Nơi bà hội quân với các bà
Quý Lan (An Bình phu nhân) và Ngọc Kinh công chúa là di tích
''Bãi Hội'' ở làng Đông Định, xã Thái Hoà, Lập Thạch. Nơi ấy nay có đền thờ Bà tạo thành một vùng căn cứ rộng
lớn ở các xã Liễn Sơn, Thái
Hoà, Liên Hoà, Hợp Lý huyện Lập Thạch và các xã Hoàng Hoa, Đồng Tình, An Hoà huyện
Tam Dương.
Các di tích trong khu vực sông Đáy.
1- Xã Liên Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 1 di tích
2- Xã Liễn Sơn huyện
Lập Thạch (bờ phải sông): 2 di tích
3- Xã Thái Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 3 di tích
4- Xã Bồ Lý huyện Lập Thạch (Vực Truông): 1 di tích
5- Xã Hợp Lý huyện Lập Thạch (bờ trái sông): 1 di tích
6- Xã An Hoà huyện Tam Dương
(bờ trái sông): 3 di tích
7- Xã Đồng ranh huyện Tam Dương (bờ trái sông): 6 di tích
8- Xã Hoàng Hoa huyện Tam Dương (bờ trái sông): 2 di tích
Cộng xã: 19 di tích
Tháng Giêng năm Canh Tý (40CN), tất cả các tướng ở mọi vùng đều
đã tiến quân về họp lại ở thành Phong Châu sông Bạch Hạc để khao thưởng các
quân sĩ.
II- KHỞI NGHĨA Ở CỬA SÔNG HÁT
Sau cuộc tổng tập hợp quân đội ở Phong Châu, Hai Bà đã cho
quân đội vượt sông sang lập đàn thề ở bãi cát dài cửa sông Hát.
Nơi ấy nay thuộc xã Hát
Môn huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây. Địa điểm cách đê hữu sông Hồng 6km, gần chỗ cửa
Hát tách ra từ sông Hồng. Tại Hát Môn, Hai Bà cho quân sĩ dựng đàn tế cáo trời
đất, tuyên bố khởi nghĩa. Lời tuyên như
sau:
''Trời sinh một người làm
tông chủ của vạn vật trong trời đất. Muôn vật ràng buộc vào đấy, cỏ cây quan
hệ về đấy. Trải các triều trước các vị đương thiên tử đều là bậc thánh minh,
khiến cho triều đình có đạo Yên dân lo việc nước, đức hoá mở mang, thiên hạ thanh bình,
quốc gia vô sự. Nay có người hơ
khác tên là Tô Định, lòng dạ chớ dê, hăm doạ 4 phương, tham tàn bạo ngược, trời, đất, thần, người đều căm giận.
Thiếp là cháu gái của Vua Hùng thuở trước, hôm nay đau lòng thương dân vô tội, dấy nghĩa trừ tàn nguyện xin các vị thần
linh hội họp tại đàn này chứng giám và phù hộ cho thiếp. Thiếp là Trưng Nữ dấy
binh dẹp giặc, che chở dân lành, thú phục lại muôn vật cũ của tổ tông. Không
phụ ý trời,
thoả nguyện nơi đền miếu của các bậc đương các đời,
không phụ sự trông đợi của tổ phụ nơi chín suối''
Tế xong, Hai Bà phân chia các đạo quân, tổ chức quân ngũ.
Riêng số các nữ tướng, nữ binh chia
làm 2 đội, phong cho các chức:
1- Lão Tiên công chúa nắng giữ ''Trung quân nội thị''
2 - Công chúa Cẩn Hạnh nắm giữ ''Tiền quân nội thị'' có 500
quân
3- Công chúa Huệ Đức và Công chúa Trang ranh nắm giữ quân ''nội
thị binh nhung''
4- Công chúa Ả Chàng, Ả Chạ (vì Lê Ngọc Thanh cùng danh hiệu)
nắm giữ "Tả quân nội thị", quân nữ có 500 người
5- Thuỵ công chúa và công chúa Minh Trinh nắm giữ ''Hữu quân nội
thị''. Quân nữ có 500 người
6 - Công chúa Minh Nương
nắm giữ tiền quân - quân nữ có 100 người
7 - Công chúa Tráng Cẩn nắm giữ ''Tả quân nội thị''. Quân nữ
có 100 người
8- Công chúa Bình Khôi (tức bà Nhị) nắm giữ toàn bộ các vệ ''Nữ
quân nội thị...
Còn các tướng nam
đều cớ phong chức thu nạp tham gia khởi nghĩa.
Sau đó bà Trắc cùng các tướng sĩ bái lạy trời đất, thống lĩnh quân dân, tiến
quân về thành Long Biên đánh Tô Định.
III- CUỘC TIÊN QUÂN MÙA XUÂN NĂM CANH TÝ
(42.CN) ĐẠI THẮNG:
Trên đường tiến quân, Hai Bà dẫn toàn bộ quân đội về làng Hạ
Lôi dựng đồn đóng quân.
Đêm đó ở Hạ Lôi, (tên thời nội thuộc Hán là Kỳ Họp) có hơn 10 vị tướng dưới quyền được chọn làm tướng ''thủ
túc'' (thân cận, gần gũi như tay chăn), và có 17 nữ tướng có tài trí ngày đêm
thường trực ở bên cạnh Trưng Vương. Ngày 07 tháng Giêng, bà Trưng mở tiệc lớn
khao quân ở Hạ Lôi 10 ngày, rồi chia quân làm 5 đạo.
- Đi tiên phong là Đại Vương Đông Hối
- Trung quân là Nữ Vương
Trưng Trắc (ở giữa)
- Tả quân là Minh công dực thánh (?) (bên trái)
- Hữu quân là Lương
công dực thánh (?) (bên phải)
Hậu quân là Hiến công (?) và Nhị nương công chúa
Tất cả cùng tiến về thành Long Biên đánh Tô Định. Cảnh tượng
ngày xuất quân thật oai hùng: ''Cờ xí đầy đất, chiêng trống vang trời, tướng nam lẫm liệt, tướng nữ lạnh lùng''. Trước sức mạnh
như vũ bão của đội quân Hai Bà, quân Hán không kịp tổ chức nghênh chiến,
chống đỡ, nên khi quân đội của Hai Bà tấn công, quân của Tô Định chỉ còn biết
thua chạy và bị giết ''máu chảy thành ao, xương tụ thành gò'', xác giặc chồng chất làm
cho ''dựng sông nghẽn chảy'', Tô Định bị đao chém sát thương. Cuối cùng thì
Tô Định nhanh chóng rút chạy về Trung Quốc, chịu tội với triều đình nhà Hán.
Chẳng bao lâu, trong toàn quận Giao Chỉ, nghĩa quân tổng công kích, thu phục
được 65 thành.
IV VƯƠNG TRIỀU
HỌ TRƯNG.
''Đại Việt sử ký toàn thư"
chép là ''Trưng Nữ Vương Kỷ''
Đất nước giải phóng, Hai Bà thu quân về thành Phong Châu. Bà
Trưng Trắc lên ngôi Vương, đứng đầu bộ máy
nhà nước độc lập tự chủ. Tiến hành phong thưởng thứ bậc công thần cho các tướng
sĩ. Cắt cử một số tướng sĩ trở về nơi căn cứ cũ của mình
xây dựng doanh điện phòng vệ làm hậu cứ cho triều đình.
Ở trung ương, xây dựng bộ máy nhà nước vương triều gồm có 2 ban
''văn- võ''. Tất cả đều có chữ ''tiết ché' (nghĩa là ''chỉ huyết), đặt
quan chia chức đảm nhận công việc Nhà nước.
Lại xây dựng 1 ''Sở hành cung'' ở xứ đầu voi làng Hạ Lôi làm nơi ''Sở thiết
triều'' (nơi bàn việc nước lưu động). Phía sau xây thành bảo vệ, đời sau gọi
là ''thành ống''. Đồng thời bà Trưng Nhị dựng hai luỹ ở Cư An, đắp thành Đền,
tất cả đều nằm ở phía Tây Bắc ''hành cung'' Hạ Lôi trưng sự bố phòng bảo
vệ.
Sau đó, bà Trưng Trắc
đời đô về Hạ Lôi, định trị sở việc nước chính thức là ''hành cung'' xứ đầu
voi. Nay là đền Hai Bà. Đất ấy đời Hán là làng Kỳ Hợp huyện Chu Diên. Từ đó
chính trị ổn định, việc nước trong sáng êm đềm, lòng
dân theo phục.
V- CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÃ VIỆN NĂM 42.CN.
Năm 41.CN, vua Hán Quang Vũ được tin triều đình Lĩnh Nam đã được
xác lập, dơ Bà Trưng Trắc làm tôn
quân, nên tức tốc hạ lệnh cho các quận, châu, huyện phía nam là Trường Sa, Hợp
Phố và một số nơi thuộc Giao Chỉ sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, mở đường
thông các núi khe, chứa thóc lương để dự phòng cho cuộc xâm lăng
sắp tới Ngay sau đó, Hán Quang Vũ lại sai Tô Định dẫn 5 vạn quân đi trước trở
lại Giao Chỉ. Mã Viện vui mừng được Hán Vũ Đế cử làm Phục Ba tướng quân, cho tổng chỉ huy cùng với phó tướng là Phù Lạc
Hầu Lưu Long, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân đem 30 vạn quân tiến vào nước
ta để đánh Trưng Vương.
Quân Hán qua cửa ải Ngọc Quang
1- Cuộc Chiến ở thành Lạng Sơn
Được tin bái về, ở thành Hạ Lôi, Trưng Trắc cử trưng Nhị và hai đại tướng đem quân lên
đánh chặn giặc, giết chết được Tô Định ngay từ trận đầu giao chiến. Thấy tình
thế thất lợi, sau khi qua ải Ngọc Quan, Mã Viện và Lưu Long dẫn quân đến thành Lạng Sơn lập doanh luỹ cố thủ
thanh thế rất to.
Để chặn đánh quân địch từ ngoài biên ải, Trưng Trắc dẫn toàn bộ đại quân lên thành Lạng Sơn cự chiến
Mã Viện là viên tướng già
(lúc này Viện đã ngoài 70 tuổi) giảo quyệt, biết trưng Trắc đã đem hết quân đội lên đánh
thành Lạng Sơn nên ra lệnh cho quân sĩ cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian
tiếp chiến, khiến đại quân của Hai Bà Trưng gặp bất lợi. Mã Viện chơ Lưu Lang coi giữ 25 vạn quân ở lại cố thủ thành Lạng Sơn,
cầm chân quân đội của Hai Bà Trưng dưới thành, bố phòng ở
những nơi hiểm trọng, không chịu ra đánh. Đại
quân của Hai Bà do vậy phải kìm lại vây thành.
2- Âm mua của Mã Viện
Trong khi tình thế chiến trận kéo dài im ắng, thì Mã Viện dẫn
5 vạn quân bí mật xuất phát, không kể ngày đêm, cướp đường mà đi, cấp tốc chỉ trong 5 ngày sau đã đến
khu Thanh Trước, dựa vào địa hình nụ; mà đồn binh, tích trữ lương thảo. Rồi
Mã Viện trước hết tấn công kho quân lương ở Nội Phật
dơ bà Thánh Mẫu Dưỡng quản lĩnh, đánh tan cơ sở hậu cần của quân đội Hai Bà.
Sau đó Mã Viện tấn công thành Cự Triền.
Cự Triền là một thành lớn do Bà Trưng Nhị tổ chức xây đắp để phòng
thủ ở mặt tây bắc cho đô thành Mê Linh. Ở mặt trận này tuy quân đội của Bà Trưng đã tiến lên Lạng Sơn, nhưng do thành được xây đắp kiên cố nên Mã Viện
không dễ dàng hạ nổi. Địa hình lại hoàn toàn bất lợi cho quăn Hán, vì thành
được xây đắp trên gò Dền giữa cánh đồng Dền, bốn bề đồng không nước ngập, địa
hình trở nên phức tạp. Để lấy điểm tựa tập kết quân sĩ tấn công thành Dền, Mã
Viện đã phải hấp tấp đưa vàơ địa thế
sẵn có của một quả gò nhỏ, gọi là gò Viên (dân đã quen gọi là gò Vượn) thuộc cánh đồng Vượn) đắp trong một đêm phải xong.
Một trận chiến quyết liệt đã diễn ra, cuối cùng thì thành Dền
cũng bị hạ. Đình Cư An xã Tam
Đồng, di tích thờ Bà Trưng Nhị
có đôi câu đối viết về sự kiện này. Như sau:
Triền thuỷ ba bình phần tử y hi hàm thánh trạch
Viên thành nguyệt hiểu đống yểm ẩn ước hiện thần quang
Nghĩa là: Sóng nước
quanh đồng triền (đồng Dền) đã yên, cây cối nghĩ rằng có công ơn của Thánh Trăng soi thành Vượn, bước tới gần gò đống
như có như không, cũng bày ra biến hoá rõ ràng. Sau khi hạ thành Cự Triền, Mã
Viện không mấy khó khăn khi tiến về đánh thành Hạ Lôi, đào mộ cha mẹ Hai Bà,
yết cung điện. Kinh đô Mê Linh phút chốc chìm trong máu lên. Sau đó, Mã Viện
lại kéo quân lên thành Lạng Sơn,
trong đánh ra, ngoài hợp chiến cùng tiến đánh Hai Bà Trưng từ hai phía.
3- Trận chiến ở Lãng Bạc
Sau khi bị tổn thất ở thành Lạng Sơn, lại bị quân Hán bức bách ở mặt trận phía trước và
phía sau, nên Bà Trưng rút quân trở về. Đội quân hai bên gặp nhau ở Lãng Bạc,
địa điểm ở vùng 2 huyện Tiên Du- Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh.
Một trận quyết chiến đã xảy ra. Sử ''Toàn thư" chép: ''Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ
quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui về giữ Cấm Khê''
4- Công cuộc cố thủ cấm Khê
Sau khi rút khỏi mặt trận Lãng Bạc, Trong Vương biết là thành Cự Triện và kinh đô Mê Linh đã bị
thất thủ, Hai Bà tiến lên vùng Cấm Khê thủ hiểm, tính kế lâu dài. Cấm Khê (sử
cũng chép là Kim Khê) là vùng đất ngập nước bên bờ sông Cà Lồ từ làng Gia
Phúc (xã Xuân Đài), qua làng Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao của xã Vân Đài, xã
Tiên Đài của tổng Vân Đài huyện Yên Lạc, phủ Vĩnh Tường triều Nguyễn, đến xã Can Bi tổng Xuân
Lãng huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Yên. Trong đó các làng Cẩm La, Phúc Lộc, Yên
Nội, Đống Cao đời Lê trở về trước thuộc
xã Vân Đài hoặc Quan Đài cùng với các xã Xuân Đài Tiên Đài là nơi tập trung nhất về di tích thờ cúng Hai Bà Trưng.
Ở cấm Khê, quân Hai Bà bị vây hãm mấy tháng liền. Phía trước không còn đường tiếp lương, cỏ ngựa,
phía sau không có quân cứu viện lại biết thành trì lăng mộ ở nhà (Hạ Lôi) đã
bị Mã Viện phá hết, nhưng
không thể tự phá trận để thoát khỏi vòng vây. Biết rằng cơ nghiệp do chị em gây dựng bấy nay sẽ khống còn,
Bà Trưng Trắc tự khẳng định với mình rằng:
Sinh ra làm người, thà
làm quỷ nước Nam, há chau đã bị trói tay bắt sống, bị người Hán phương Bắc làm nhục?
Thế là Bà chỉ huy toàn quân quyết đánh một trận, quân - thần -
tướng - tá đều bị vây, bị giết ở Cấm Khê. Số còn lại trở về nơi doanh địa cũ rồi lần lượt bị Mã Viện
đánh bại. Thu thắp trong điền dã của chúng tôi trong khu vực xã Văn Tiến huyện
Yên Lạc, thấy có như sau:
- Gò Hang: Thống kê năm 1938 của xã Vân Đài thì trong làng
''có lái đống gọi là gò Hang, nhưng
không biết dưới có hang không''.
Ngày nay gò Hang hiện còn, thuộc thôn Yên Nội. Diện tích khoảng
5-6 sào Bắc Bộ, nhân dân ở đây gọi là gò Cánh Tiên. Hang có cửa vào xây cuốn
vòm như hình chớp bia bằng gạch bìa, ở
thành có vạch ô quả trám. Cửa hang nổi lên trên mặt đất nay mới bị lấp. Chúng
tôi nghĩ rằng người xưa xây như một cái am rồi mới gánh đất đổ lên thành vòm.
Gò có ''hang'' ở dưới nên gọi ''Gò
Hang''. Vì vậy đất trên gò gồm nhiều loại, xồm xộp không hoàn thổ và cỏ không
mọc được. Cũng chưa thấy khai thác trồng trọt. Nay mới lập 1 am nhỏ để mấy
nhà bên cạnh gò thắp hương.
Có thể dơ có gò
Hang là một ngôi mộ cổ dùng gạch xây đời Hán mà vùng này có địa danh Hi Sơn.
Tất nhiên còn chờ ở các tài liệu khảo cổ trong tương lai. Xung quanh gò Hang còn các địa
danh: Thầy Vang, Chùa Tranh, Giếng Tó, Gò Bắc Bếp; Gò Tổng Binh, Gò Cơn Ngựa.
Thầy Vang: Chữ ''Thầy'' theo cách giải thích của địa phương
nghĩa là ''bờ lũy''. Thầy Vang nghĩa là bờ lũy Vang. Chữ Vang là địa danh thuộc
thôn Yên Nội.
Chùa Tranh: Tên chữ là ''Phúc Lâm Tự''. Chùa không thờ bằng tượng Phật mà thờ bằng ''Tranh Phật''. Chùa Tranh thuộc
thôn Đống Cao ở sau đình Đống Cao. Là một hiện tượng hiếm thấy.
Giếng Tó: Là giếng ở trước
đình Đống Cao. Tang và thành giếng làm bằng đất thớ màu vàng. Nước giếng rất trong
Gò Bắc Bếp: Địa danh thuộc thôn Đống Cao, ở cạnh đình Đống
Cao. Đào yên tìm thấy nhiều tro bếp và các ''ông đầu rau''.
Gò Con Ngựa: ở sau đình Đống Cao, cũng gọi là gò ''Đồng Cũ''.
Trống canh tác nhân dân địa phương tìm thấy nhiều gạch bìa cổ, có vạch. Bờ
móng xây bằng vữa đất, xếp từng lượt khi cày sâu vẫn bật gạch tên.
Dưới làng Vân Đài là
làng Tiên Đài được nhân dân giải thích là ''Đài quan sát'' ở phía trước. Làng
này xưa chỉ có một họ Trần.
Làng Xuân Đài, địa danh thời cổ là làng Liễu. ở đây có gò ''Tổng
binh'', nơi cớ đền Gia Phúc thờ Hai Bà Trưng. Cả
làng xưa chỉ có một họ Phạm.
Như vậy xã Văn
Tiến ngày nay gồm ''3 làng Đài'' xưa là:
Tiên Đài, Xuân Đài và Vân Đài (hoặc Quan Đài gồm: Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao,
Yên Nội)
Toàn bộ các cánh đồng cấy lúa trồng màu vùng này xưa kia là vùng đầm lầy bên bờ sông Cà Lồ. Sau đê sông
Cà Lồ bị vỡ vào thời Tự Đức, nên bị bồi lấp nay thành đồng ruộng. Nay là ruộng
đất các xã Nguyệt Đức, Văn Tiến.
Về giai đoạn cuối cùng của cuộc khởi
nghĩa ở Cấm Khê, sử CM chép: ''Trưng
Vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ thếch, đều bị thất trận
chết. Sự nghiệp anh hùng cứu nước của họ Trưng đến đây là kết thúc.
1. THỜI ĐỒ ĐÁ
Nhan đề : Thời đại Dá cũ
và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam
Tác giả: Công ty Thiên
Kim
Nơi xuất bản: Công
ty Thiên Kim
Thời gian xuất bản: 25/
9/ 2015
Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam
Trong buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam là một trong những
quê hương của loài người. Người ta đã
phát hiện thấy người vượn ở Bình-Gia
(Lạng Sơn), nhiều công cụ thuộc buổi đầu thời kỳ
đồ đá cũ ở núi Đọ, núi Quan Yên (Thanh Hoá). Đó là dấu vết xưa nhất hiện nay
ta biết về giai đoạn bầy người nguyên thủy trên đất nước ta.Thời ấy cách ngày
nay hàng mấy chục vạn năm.
Bấy giờ, mực nước biển
Đông thấp gần trăm mét so với ngày nay. Vì vậy, đất nước ta khi ấy qua
bán đảo Ma-lai-xi-a còn nối liền với các đảo Gia-va, Xu-ma-tơ-ra,
Ca-li-man-tan của In-đô-nê-xi-a. Các kết quả nghiên cứu địa chất và khí hậu học
còn cho biết trong thời kỳ này xen kẽ những kỳ khô hạn là những kỳ mưa nhiều khiến khí hậu Việt Nam ẩm và mát hơn bây giờ một
chút. Trong rừng rậm, trên thảo nguyên, có nhiều đàn voi răng kiếm, gấu mèo,
tê ngưu, lợn lòi, hổ, báo, hươu,
nai, đười ươi, vượn, khỉ, cầy, chồn...sinh sống. Những bầy người nguyên thuỷ
sống dựa vào hang đá, lùm cây, đi dọc bờ suối, bờ sông tìm kiếm
thức ăn bằng hái lượm và săn bắt.
Người ta đã
phát hiện được ở núi Đọ hàng vạn công cụ đồ đá cũ; người Việt cổ khai thác đá
gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ, tạo nên những công cụ chặt, rìu tay,
nạo...bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ, thuật ngữ khảo
cổ gọi là mảnh tước. Với những đồ đá đó, người nguyên thủy có thể chặt cây,
vót gậy tre, lao gỗ, xẻ thịt, đập vỡ xương thú săn bắt được... Loại hình
công cụ nghèo nàn, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ là đặc điểm của thời kỳ đồ đá cũ.
Di tích núi Đọ là bằng chứng về sự có mặt của những chủ nhân sớm nhất trên
lãnh thổ Việt Nam vào thời kỳ tổ chức xã hội loài người đang hình thành.
Cách ngày nay khoảng ba, bốn vạn năm, vào thời kỳ bộ tộc
nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã
đông đúc hơn. Người ta đã phát hiện được dấu tích con người cùng với những
hóa thạch động vật cổ ở hang Hùm (Yên Bái), hàng Thung Lân (Ninh Bình). Đó là
những thị tộc, bộ lạc sống trong hang động miền núi đá vôi. Tuy nhiên, cũng
đã có những thị tộc, bộ lạc tiến ra sinh sống ở miền đồi trung du vốn là miền
phù sa cổ của sông Hồng với rừng rậm phủ dày. Những hiện vật đá cuội ghè đẽo
thô sơ thuộc cuối thời đại đồ đá cũ hoặc đầu thời đại đồ đá giữa tìm thấy ở
di chỉ Sơn Vi (Phú Thọ) là những minh chứng chắc
chắn cho giả thuyết này.
Văn hóa đá cuội ghè được tiếp nối với hai nền văn hóa Hòa Bình
(thuộc thời đại đồ đá giữa) và văn hóa Bắc Sơn (thuộc buổi đầu thời đại đồ đá
mới) cách ngày nay khoảng một vạn năm. Ở các nền văn hoá này, bên cạnh kỹ thuật
chẻ đẽo, người nguyên thủy đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu
Bắc Sơn (rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng. Văn hóa Bắc Sơn là một trong những di
chỉ văn hóa có rìu mài sớm trên thế giới. Cũng trong thời kỳ này người ta còn phát hiện được những đồ gốm
đầu tiên được nặn bằng tay.
Việt Nam là đất nước của hàng trăm loại tre, nứa. Tre, nứa
đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hóa nguyên thủy cũng như trong đời sống người Việt Nam sau này. Chúng được
dùng làm gậy, lao, cung tên, đồ đan lát, thừng bện... Do bị thời gian huỷ hoại
nên đến nay không còn chứng tích công cụ tre, nứa của người Việt cổ; tuy nhiên ta vẫn có thể tìm thấy
dấu vết của tre, nứa trên các hoa văn đồ gốm sơ kỳ.
Cùng những thị tộc, bộ lạc ở miền núi, trung du trên đất nước
Việt Nam khi ấy, còn có những tập đoàn người nguyên thủy sinh sống ở miền ven biển Đông. Họ là
chủ nhân của các nền văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi).
Trải qua mấy nghìn năm, đống vỏ sò điệp do họ vứt ra sau những bữa ăn đã chất
cao thành gò, rộng hàng trăm mét vuông. Người nguyên thủy sinh sống ở ven bờ
biển còn khai thác đá gốc (thạch anh) làm công cụ. Họ chôn người chết trong những mộ huyệt tròn
đào giữa đống sò điệp và chôn theo người
chết một vài công cụ đá, đồ trang sức bằng vỏ ốc xuyên lỗ...
Với đồ đá, đồ tre gỗ, đồ đựng bằng đất nung, các thị tộc
nguyên thủy đi săn và hái lượm có
hiệu quả hơn. Ngoài việc mò cua, bắt ốc, chủ nhân các nền văn hóa
Hòa Bình, Bắc Sơn còn săn được nhiều thú như lợn
rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê ngưu,
voi... Chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn đã biết nuôi chó, trồng một số
cây ăn quả, cây cỏ củ, rau đậu, dưa... . Từ cuộc sống hái lượm những sản vật
sẵn có của tự nhiên, người
nguyên thủy Việt Nam sớm bước vào cuộc sống sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh
nghề săn, nghề đánh cá phát đạt, nghề nông đã ra đời cùng với việc
chăn nuôi gia súc nhất là trên các vùng châu thổ của các con sông lớn.
Nhiều nhà nông học khẳng định bán đảo Đông Dương là quê hương của cây lúa. Ở đây có nhiều loại lúa hoang hiện còn tồn
tại ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, bà con trong vùng thường gọi là lúa ma hoặc lúa trời. Dấu vết con người thời
kỳ nguyên thủy có thể tìm thấy ở mọi miền trên đất nước Việt Nam từ vùng cực Bắc đến
cực Nam. Họ để lại những di tích hang động và di tích ngoài trời ở miền núi,
đồng bằng kể cả ở những vùng đất thấp sình lầy Nam Bộ trước khi hình thành nhà nước Việt Nam đầu tiên. Như vậy là vào thời đại đồ đá,
trên nhiều vùng ở nước ta đã xuất hiện những nền văn hóa nguyên thủy
đặc sắc, trong đó bên cạnh nền kinh tế hái lượm đã bắt đầu phát triển nền kinh tế sản xuất
nông nghiệp lúa nước.
Con người đã xuất
hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy
dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động
ở Lạng Sơn và Nghệ An. Ðặc
biệt là ở hậu kỳ thời đá cũ (văn hoá Sơn Vi cách ngày nay 10.000 - 23.000
năm), con người đã phân bố khá rộng và khá đông trên đất Việt Nam.
Văn hoá Sơn Vi
Văn hoá Sơn Vi mang tên xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, do các nhà khảo cổ
Việt Nam phát hiện và xác lập danh pháp vào năm 1968. Đến nay, hơn 140 địa điểm
VHSV được phát hiện, phân bố chủ yếu trên các đồi gò
trung du, một số di tích hang động Bắc Việt Nam. Công cụ đều làm từ đá cuội
sông suối, ghè đẽo một mặt là chính, vết ghè trên một rìa cạnh tạo ra công cụ
mũi nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, phần tư viên cuội, hai hoặc ba rìa;
cùng với một số công cụ mảnh tước kém
định hình. Cư dân VHSV chưa biết
đến kĩ thuật mài công cụ đá và làm gốm, hoạt động kinh tế chủ yếu là săn bắn
và hái lượm, chưa biết trồng trọt và chăn nuôi. VHSV có niên đại cuối Cánh
Tân (Late Pleistocene), tồn tại trong khoảng từ 23.000 đến 11.000 năm cách
ngày nay. VHSV khác văn hoá Hoà Bình, có trước văn hoá Hoà Bình và phát triển sang văn
hoá Hoà Bình, thuộc hậu kì thời đại đá cũ. (Xem hình) .
Nhan đề : Ngô Quyền người mở đường kỷ nguyên độc lập cho đất
nước thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc
Tác giả : Minh Vượng
Nhà xuất bản : Bảo tàng lịch sử Quốc Gia
Thời gian xuất bản : 5/ 6/ 2014
Ngô Quyền sinh vào năm Mậu Ngọ (898) niên hiệu
Càn Ninh thứ năm hoặc Quang Hóa, năm đầu đời Đường Chiêu Tông ở xứ Đường Lâm
(nay là xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội). Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, làm chức
Châu mục ở châu Đường Lâm. Họ Ngô của ông là dòng họ hào trưởng có thế lực, đời đời là quí tộc.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư mô tả: khi mới sinh, Ngô Quyền
có ba cái nốt ruồi ở lưng, có thầy tướng số trông thấy cho là lạ, đoán rằng về
sau ông có thể làm chúa một phương, do đó mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền dáng người khôi ngô,
"mắt sáng như chớp, đi thong thả như cọp" "sức có thể cầm vạc
giơ lên".
Thuở thiếu thời của Ngô Quyền cũng là thời kì
bão táp của chế độ thống trị nhà Đường ở An Nam. Đô hộ phủ An Nam ngày
càng tỏ ra bất lực trong việc khống chế các thế lực cát cứ địa phương cũng
như các thế lực bên ngoài. Người Nam Chiếu đã tấn công dữ dội Giao Châu từ năm
858 đến năm 866. Sau loan An Sử (755 - 763) và nhất là khởi nghĩa
Hoàng Sào (874 - 884), nhà Đường phải đối phó với nạn phiên trấn cát cứ,
sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với An Nam ngày càng yếu
đi. Quyền lực của phủ Đô hộ bị phân tán xuống các vùng nhỏ, do đó xuất hiện
các thế lực hào trưởng có vai trò ngày càng
quan trọng trong bộ máy cai trị. Vì vậy, họ Khúc, hào trưởng Hồng Châu, đã thiết lập chính quyền tự chủ ở An Nam một cách khá dễ
dàngvào năm 905. Thế lực họ Khúc yếu ớt, đối đầu và thất bại trước sự xâm lấn của nhà Nam Hán. Nhưng
sự thống trị của nhà Nam Hán cũng không vững bền. Năm 931, thế lực họ
Dương do Dương Đình Nghệ chỉ huy ở Ái Châu đánh bại quan lại
nhà Nam Hán là Lý Tiến, Trần Bảo ở dưới chân thành Đại La. Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ (tương đương vua) đầu
tiên của người Việt tự chủ. Dương Đình Nghệ nắm
quyền ở Đại La nhận được sự ủng hộ của nhiều thế lực địa phương khác, trong
đó có họ Ngô của Ngô Quyền.
Ngô Quyền (tranh minh họa).
Lúc trưởng thành, Ngô Quyền võ nghệ
tinh thông và có chí khí khác người. Năm 920, Ngô Quyền theo Dương Đình Nghệ
đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La vào năm 931, góp phần giúp
cho Dương Đình Nghệ thắng quân Nam Hán lên làm Tiết độ sứ. Năm 932, Ngô Quyền
được Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ tin tưởng giao cai quản Châu Ái rồi còn gả con gái cho. Trong 7 năm cai quản Ái Châu, Ngô Quyền
trổ tài lực, dốc lòng đem lại yên vui, thái bình cho dân chúng.
Năm 937, thế lực họ Kiều ở châu
Phong tổ chức binh biến, giết chết Dương Đình Nghệ, đưa Kiều Công Tiễn lên
nắm quyền. Công Tiễn tự xưng Tiết độ sứ. Hành động này đã gặp phải sự
phản ứng mạnh mẽ của các thế lực hào trưởng các địa phương, thậm chí chính nội bộ họ Kiều cũng
chia rẽ trầm trọng. Ngô Quyền, với danh nghĩa là bộ tướng và con rể của Dương
Đình Nghệ đã sớm trở thành ngọn cờ quy tụ lòng
yêu nước của mọi tầng lớp, tập
hợp lực lượng tiêu diệt kẻ phản trắc Kiều Công Tiễn. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn
hoảng sợ, vội vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Nam Hán
Cao Tổ (Lưu Cung) sai con trai là Lưu Hoằng Thao đem hai vạn quân, dùng
chiến thuyền, xâm lấn Tĩnh hải quân.
Năm 938, Ngô Quyền cùng với Dương Tam Kha (con trai Dương Đình Nghệ) và Đỗ Cảnh Thạc đem quân ra Đại La, giết chết Kiều
Công Tiễn khi quân Nam Hán còn chưa kịp vào thành. Thành Đại La trở thành trung tâm đầu não và chỉ huy của Ngô Quyền để nhanh chóng tổ chức kháng
chiến chống quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Trước mưu đồ xâm lược trở lại
của phong kiến Trung Quốc, ngọn cờ cứu nước của Ngô Quyền trở thành ngọn cờ
đoàn kết của cả dân tộc. Đội quân Ngô Quyền, từ một đội binh Ái Châu đã nhanh
chóng trở thành một đội quân dân tộc. Truyền thuyết dân gian còn ghi nhớ chuyện
38 chàng trai làng Gia Viễn (Hải Phòng) do Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu,
đã tự vũ trang, xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy
Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hải Hưng), người mang vũ khí, kẻ
mang chiến thuyền, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo,
Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An
Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến.
Sơ đồ trận chiến Bạch Đằng của Ngô Quyền
năm 938 trưng bày tại BTLSQG.
Vùng cửa sông và vùng hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn
làm chiến trường quyết chiến. Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch
Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn
sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp. Ngô Quyền dự định nhử quân
Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho
thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến. Tướng Dương Tam Kha chỉ huy đội
quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ
bên hữu ngạn. Hai cánh quân tả, hữu sẽ phối hợp đánh địch khi chúng bị mắc kẹt
ở đoạn sông Bạch Đằng đóng cọc nhọn. Quả nhiên, quân Nam Hán mắc mưu vào đúng
thế trận Ngô Quyền đã sắp đặt. Toàn bộ chiến thuyền quân Nam Hán
bị cọc nhọn đâm chìm. Tướng giặc Lưu Hoằng Thao bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ. Chiến thắng Bạch
Đằng diễn ra quá nhanh khiến cho vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát
biên giới mà không kịp ứng tiếp cho con trai. Nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc
mộng xâm lấn Tĩnh Hải quân.
Mô hình Trận thủy chiến lịch sử Bạch Đằng
năm 938 do Ngô Quyền chỉ huy tại hhej thống trưng bày BTLSQG.
Với mưu lược thần tình của
mình, Ngô Quyền đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử nổi tiếng năm 938, kết
thúc hơn một thiên kỉ Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng một quốc
gia độc lập tự chủ cho nước Việt.
Về trận Bạch Đằng, Ngô Thì Sĩ đánh giá:
“trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời
Đinh, Lê, Lý,Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy
để lại…”
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định bỏ chức
Tiết độ sứ. Ông tự xưng vương, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô, một quốc
gia độc lập tự chủ, do vua cai quản. Kinh đô của triều đại mới không nằm
ở Đại La mà chuyển về Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc từ thời An
Dương Vương một nghìn năm trước. Ngô Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của
các vua Hùng, vua Thục. Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương tổ chức một triều chính
độc lập “đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy
mô của đế vương”.
Bà vợ họ Dương (con gái của Dương Đình Nghệ), được lập làm hoàng hậu. Các tướng sĩ có công trong cuộc chiến chống
quân Nam Hán đều được phong tước, cấp thái ấp. Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa được
6 năm (939-944). Việc đóng đô ở Cổ Loa của Ngô Vương khôi phục vị trí trung
tâm chính trị của vùng đất Hà Nội trong buổi đầu phục hưng của đất nước sau
hơn nghìn năm Bắc thuộc. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt
Nam, mở ra thời kì hòa bình kéo dài gần nửa thiên niên kỉ của
Việt Nam với những triều đại: nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần,
nhà Hồ mà công lao sự nghiệp lừng lẫy trong lịch sử.
Lăng thờ Ngô Quyền ở Đường Lâm (Sơn
Tây).
Lê Văn Hưu nhận định về ông rằng:” Tiền
Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn
quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa.
Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy.
Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước
Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được”. Phan Bội Châu tôn
vinh Ngô Quyền là “Vị Tổ Trung hưng đời thứ nhất”. Trong “Đại Nam Quốc sử diễn ca”, Phân Bội Châu đã viết:
“Ngô Quyền đức trí cương - nhu
Quăng đi cái ách nghìn thu thuộc Tàu
Danh thơm tiếng mãi về sau
Non sông gấm vóc nhắc nhau bảo toàn…”
Chiếc đĩa sứ có vẽ trận chiến Bạch Đằng do Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đề tặng đền thờ Ngô Quyền ở Đường Lâm vào năm
1998.
Ngô Quyền mất ngày 18 tháng Giêng năm 944, thọ
47 tuổi. Ông được xây lăng thờ ở nhiều nơi. Tại xã Đường Lâm, Sơn Tây có đình
thờ và lăng Ngô Quyền. Trong nhà truyền thống xã Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như rìu đá, di chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch Đằng… Tại
Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, Bảo tàng Hải
Phòng, Hải Dương đều trưng bày trang
trọng tượng, tranh về Ngô Quyền cùng những hiện vật, mô hình về trận chiến Bạch Đằng năm 938. Ngày 12/12/1986 Khu di
tích Từ Lương Xâm - nơi đại bản
doanh của Ngô Quyền đánh trận Bạch Đằng (quận Hải An- Hải Phòng) đã được Bộ Văn hoá (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch) xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 235 -
VH/QĐ. Để tưởng nhớ công ơn của Đức Vương Ngô Quyền, hàng năm nhân
dân địa phương tổ chức lễ hội truyền thống tại di tích trong 03 ngày từ 16-
18 tháng giêng đúng vào dịp kỷ niệm ngày mất của Ngô Quyền. Ông mãi là niềm tự
hào của dân tộc; người
anh hùng đã khôi phục quốc thống sau nghìn năm Bắc thuộc.
Nhan đề : Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 – Đòn quyết định
đánh bại chiến lược “ Chiến tranh cục bộ”
Tác giả: Nguyễn Ngọc Toán
Nơi xuất bản: Quân đội nhân dân
Thời gian xuất bản: 7/ 12 / 2014
Địa chỉ:
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/nhung-moc-son-lich-su/tong-tien-cong-va-noi-day-xuan-mau-than-1968-don-quyet-dinh-danh-bai-chien-luoc-chien-tranh-cuc-bo/334866.html
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân
1968 - Đòn quyết định đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
QĐND Online - Năm 1965, với việc đưa quân viễn chinh cùng quân
các nước đồng minh vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường Việt Nam, đế quốc
Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam lên quy mô và cường độ chưa từng có.
Chúng ra sức tăng quân, tăng chi phí quân sự và ném vào chiến trường Việt Nam
một khối lượng phương tiện chiến tranh khổng lồ và hiện đại nhất. Tính đến đầu
năm 1968, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên tới 480.000 tên và
68.800 quân của các nước đồng minh. Nếu kể cả khoảng hơn 20 vạn quân đóng ở
các căn cứ quân sự trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Phi-líp-pin, Hạm đội 7, một bộ
phận Hạm đội 6, đã có tới 80 vạn quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh Việt
Nam, cùng một lực lượng hùng hậu quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Lực lượng quân số đông đảo, cùng phương tiện, vũ khí chiến
tranh tối tân nhất thời đại, lính Mỹ liên tục tổ chức các cuộc hành quân “tìm
diệt” trên khắp chiến trường miền Nam, mà đỉnh điểm là hai cuộc tiến
công quy mô lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966- 1967, nhưng quân xâm lược Mỹ
không đạt được mục đích đề ra. Chỉ trong vòng 2 năm (1965 - 1967), lực lượng
bị suy yếu rõ rệt, Mỹ từ thế chiến lược phản công và tiến công giữa năm 1965,
buộc phải lùi dần vào thế phòng ngự chiến lược bị động vào cuối năm 1967 trên
toàn chiến trường.
Đối với ta, tuy giành được nhiều thắng lợi, thế và lực của
cách mạng đã có bước phát triển mới, nhưng chưa làm chuyển biến cục diện chiến
tranh có lợi cho cách mạng. Từ thực tế trên chiến trường, kết hợp với tình
hình trong nước và quốc tế, cuối năm 1967, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân
đội ta đã nắm lấy cơ hội này, quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền
Nam sang thời kỳ mới. Sau khi thảo luận kỹ khả năng đánh vào thành phố của lực
lượng vũ trang và khả năng nổi dậy của quần chúng, Bộ Chính trị thông qua
phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo đã được
Quân ủy Trung ương nhất trí. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là
Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường
9 - Khe Sanh. Cụ thể là: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối
hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam
chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào
thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần
chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy
chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn
- Gia Định, Huế, Đà Nẵng và các thành phố lớn.
Thực hiện chủ trương này, đêm 20 tháng 1 năm 1968, trước Tổng
tiến công và nổi dậy 10 ngày, các sư đoàn chủ lực của ta nổ súng tiến công
Khe Sanh. Ngay sau khi phát hiện chủ lực của ta đánh Khe Sanh, Bộ chỉ huy
quân Mỹ ở miền Nam lập tức điều thêm 12 tiểu đoàn thuộc sư đoàn kỵ binh bay,
sư đoàn 101 không vận, sư đoàn thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa ra khu vực
Đường 9 để đối phó.
Đúng lúc địch đang cố gắng điều động lực lượng cố giữ bằng được
Khe Sanh, thì đêm 30 và 31-1-1968 – đêm giao thừa và mồng Một Tết Mậu Thân, lợi
dụng địch sơ hở ở đô thị, quân ta đồng loạt tiến công vào Sài Gòn và hơn 40
thành phố, thị xã khác (4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư
lệnh quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu
cần), làm cho Mỹ - Việt Nam Cộng hòa bị bất ngờ, không kịp trở tay đối phó.
Tại Sài Gòn - Chợ Lớn, là trọng điểm lớn nhất của Tổng tiến
công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bởi vì đây là trung tâm đầu não chỉ đạo
toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam
Việt Nam. Ta tiến công Toà đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu Việt Nam
Cộng hòa, Đài Phát thanh Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu Thủ đô, Tổng
nha cảnh sát; các sở chỉ huy sư đoàn bộ binh Mỹ số 1, 9, 25, 101. Hàng chục vạn
quần chúng đã nổi dậy giành quyền làm chủ dài ngày ở nhiều khu phố. Riêng trận
đánh Toà Đại sứ Mỹ hơn 6 tiếng đồng hồ với 17 chiến sĩ biệt động của ta đương
đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ đã gây một tiếng vang lớn làm chấn
động nước Mỹ.
Ở mặt trận Trị Thiên, lực lượng ta tiến công Nhà Đèn, Ty Cảnh sát,
Toà tỉnh trưởng, trụ sở cơ quan bình định và trụ sở MACV, Tri Bưu, Thành Cổ,
La Vang, điểm cao 49. Nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng, Bến Đá rầm rộ nổi dậy
cùng bộ đội địa phương bao vây địch ở trong các quận lỵ cầu Nhùng, Bến Đá làm
chủ đoạn quốc lộ 1 từ Diên Sanh đến Mỹ Chánh; đánh chiếm quận lỵ Phú Lộc, cắt
đứt quốc lộ 1 đoạn từ Đà Nẵng ra Huế, phá sập Cầu Hai, cầu Nước Ngọt, giải
phóng khu vực xung yếu ven biển và phía nam Cầu Hai, khu vực Truồi.
Tại Huế, thành phố lớn thứ 3 miền Nam, hầu hết các cơ quan đầu
não của địch bị ta đánh chiếm. Phối hợp với chủ lực, quần chúng nổi dậy lùng
bắt ác ôn, phá bỏ bộ máy kìm kẹp, thiết lập chính quyền cách mạng cơ sở, xây
dựng trận địa phòng thủ… Địch sau đó phản kích dữ dội. Ta và địch giành giật
nhau từng góc phố, từng căn nhà, từng đoạn đường. Ngày 25-2, quân ta rút khỏi
Huế để bảo toàn lực lượng. Như vậy, quân và dân ta đã làm chủ thành phố Huế
25 ngày đêm. Bị tiến công đồng loạt, bất ngờ, địch lúc đầu choáng váng. Chúng
dồn về mặt trận đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm thời cơ, lực lượng vũ
trang tại chỗ hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn.
Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc
ta, nhiều người hiểu Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta chỉ có ở Tết
Mậu Thân, nhưng trên thực tế đây được xem như đợt 1, còn đợt 2 và đợt 3 diễn
ra mùa hè và mùa thu năm 1968, tạo thành tổng thể cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy năm 1968. Kết quả một năm tổng tiến công và nổi dậy, theo Thông cáo của Bộ
chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ngày 20-12-1968, quân và
dân ta ở miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên Mỹ, Việt Nam Cộng
hòa và quân của các nước đồng minh Mỹ; tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn,
7 trung đoàn, chiến đoàn, tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp; phá hỏng,
phá huỷ 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu, xuồng chiến đấu trên sông, 700 kho đạn,
100 khẩu pháo các loại; diệt, bức hàng, bức rút 15.000 đồn bốt, chi khu.
Cùng với thắng lợi vang dội của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
ở miền Nam và thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống phá hoại lần thứ nhất ở
miền Bắc, quân và dân ta đã đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại
hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở đỉnh cao.Thắng lợi này tạo ra một
bước ngoặt quyết định của chiến tranh, đánh sập ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ, làm cho chúng hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam trong
chiến tranh, buộc phải đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri, bàn về việc rút
quân Mỹ khỏi miền Nam, kết thúc chiến tranh; đồng thời góp phần quan trọng
cùng với cuộc đấu tranh của loài người tiến bộ, làm phá sản chiến lược quân sự
toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” thời Kennơđi - Giônxơn, tác động toàn diện đến
tình hình quân sự, chính trị, tâm lý, xã hội nước Mỹ.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi khắc
sâu vào lịch sử dân tộc như một bản anh hùng ca bất diệt của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, đồng thời để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong các
giai đoạn tiếp theo.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét